Những người phụ nữ nổi tiếng ở vùng đất Ngã Năm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Về Ngã Năm, hỏi chuyện về má Tám - Huỳnh Thị Tân ai cũng biết bởi má Tám là người phụ nữ 2 lần được phong tặng danh hiệu cao quý.

Trong một lần trò chuyện với chúng tôi, ông Huỳnh Tấn Lịnh (cựu chiến binh xã Mỹ Quới, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng), chia sẻ: “Ở thị xã Ngã Năm, vùng đất của phong trào cách mạng, xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong đó, có nhiều người phụ nữ rất nổi tiếng, như má Tám - Huỳnh Thị Tân; nữ du kích Ngã Năm Lưu Nguyệt Hồng…

Người phụ nữ hai lần được phong anh hùng

Về Ngã Năm, hỏi chuyện về má Tám - Huỳnh Thị Tân ai cũng biết bởi má Tám là người phụ nữ 2 lần được phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (AHLLVTND) và Bà mẹ Việt Nam Anh hùng (VNAH). Người dân địa phương thường gọi bà là má Tám. Má Tám tên thật Huỳnh Thị Tân (sinh năm 1910, mất năm 2005).

Má Tám - Huỳnh Thị Tân tại Đại hội anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1977 ở Thủ đô Hà Nội.

Má Tám - Huỳnh Thị Tân tại Đại hội anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1977 ở Thủ đô Hà Nội.

Lúc còn sống, nghe má nói quê ở vùng Phước Long - Rạch Giá. Năm 1939, má cùng chồng là ông Nguyễn Văn Thuấn đến lập nghiệp ở làng Mỹ Quới, huyện Thạnh Trị (nay là thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng). Theo lời kể của các cụ cao niên, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, gia đình má Tám là cơ sở nuôi giấu hàng trăm cán bộ cách mạng và chiến sĩ quân đội. Cách mạng cần gì, má cũng sẵn sàng. Khi cách mạng cần tài chính, cần lương thực, má Tám không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, đi vào vùng ven mua lúa và vận động nhân dân ủng hộ quỹ kháng chiến. Kết quả, má Tám mang về cho cách mạng được hơn 40 tấn lúa gạo.

Những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1946), để bảo vệ vùng tự do, kìm chân địch, quân và dân Ngã Năm chủ trương đắp sông, ngăn đường. Lúc đó, má Tám chỉ huy đội quân tóc dài của địa phương tập trung vót chông, phục vụ phong trào chiến tranh du kích vùng cận địch, góp phần làm tổn hại lực lượng của giặc ở Ngã Năm. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, má Tám tích cực tham gia hoạt động cách mạng với nhiều nhiệm vụ như tiếp tế lương thực, vũ khí, đạn dược cho bộ đội, du kích chiến đấu với kẻ thù, gián tiếp góp phần vào chiến công tiêu diệt hàng trăm tên địch ở các đồn bót tại địa phương.

Má còn làm trinh sát theo dõi tình hình địch, cung cấp cho bộ đội, du kích nhiều tin tức quan trọng và kịp thời, góp sức tiêu diệt địch. Không biết bao nhiêu lần, má Tám dẫn đầu quần chúng đấu tranh chống địch gom dân, bắt lính và đã 4 lần má bị địch bắt, tra tấn dã man nhưng má vẫn giữ vững khí tiết, bảo vệ được bí mật, an toàn cho cách mạng.

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lưu Nguyệt Hồng chính là “Nữ du kích Ngã Năm” năm xưa.

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lưu Nguyệt Hồng chính là “Nữ du kích Ngã Năm” năm xưa.

Vào tháng 10/1960, một lần má Tám bị địch bắt giam. Sau đó là những trận đòn roi tra khảo rồi lại dụ dỗ suốt 2 tháng trời. Không lung lay được má Tám, bọn chúng buộc lòng phải thả ra, hôm đó là ngày 29 Tết. Về đến nhà, má Tám mới biết người con trai thứ sáu là anh Nguyễn Văn Quyền vì nóng lòng trả thù cho mẹ đã gia nhập quân du kích và chỉ hơn một năm sau, anh đã hy sinh trong một trận đánh cảm tử vào đồn địch ngay tại quê hương.

Ngày anh Quyền mất, cũng là ngày người con trai thứ tư của má là anh Nguyễn Văn Quận được rút lên Tiểu đoàn Phú Lợi (Tiểu đoàn chủ lực của tỉnh Sóc Trăng). Hai năm sau anh Quận là Trung đội trưởng. Sau khi anh Quận thoát ly (năm 1961), đến năm 1962, cả 3 người con trai khác của má là anh Nguyễn Văn Nhơn, anh Nguyễn Văn Quẩn và anh Nguyễn Trí Phải và người cháu nội là Nguyễn Văn Vũ (con trai của anh Quẩn) cũng lên đường nhập ngũ.

Người con trai thứ sáu hy sinh, nỗi đau trong lòng má Tám chưa thể nguôi ngoai nhưng má vẫn vui khi 4 người con trai còn lại và một người cháu nội tiếp nối truyền thống của quê hương, gia đình, mang trong lòng “thù nhà nợ nước” lên đường cầm súng chiến đấu bảo vệ, giải phóng quê hương. Các con đi hết, ở nhà má lại tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng, đấu tranh trực diện với kẻ thù, bất chấp nguy hiểm, khó khăn và luôn mong ngóng tin tức con cháu ở chiến trường. Với nhiều đóng góp cho cách mạng, năm 1971, má Tám được kết nạp vào Đảng.

Thế nhưng, chiến tranh thật khắc nghiệt, liên tục từ năm 1970 đến 1974, các con và cháu của má Tám lần lượt ngã xuống. Ngày đất nước ca khúc khải hoàn, nhà nhà vui mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về, má Tám ngồi lặng lẽ trước bàn thờ của 5 người con trai và một cháu nội… Khi chúng tôi hỏi về tâm trạng của má Tám khi biết tin con, cháu hy sinh, bà Nguyễn Thị Nghĩa (con gái má Tám) nghẹn ngào: “Má vẫn thường nói, đất nước còn bị xâm lược thì các anh, các cháu phải lên đường cầm súng chiến đấu giải phóng đất nước, quê hương. Cho con cháu lên đường ra nơi chiến trường ác liệt, lòng người mẹ nào mà chẳng lo âu nhưng má vẫn vui, vẫn bằng lòng khi các con và cháu ra trận. Ngày nghe tin các anh và cháu nội hy sinh, ban ngày thái độ của má rất bình thường nhưng tối đến, má khóc rất nhiều. Có lúc tôi tưởng chừng như má sẽ không vượt qua được nỗi đau đó. Đêm đêm nghe má khóc các anh và cháu mà thấy đứt ruột. Những năm tháng đấu tranh với kẻ thù, má tôi rất gan, không bao giờ run sợ, má từng cầm cờ đi đầu trong các cuộc biểu tình. Dù bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng má không hề rơi một giọt nước mắt”.

Năm 1977, Đại hội AHLLVTND được tổ chức ở thủ đô Hà Nội. Trong buổi lễ này, má Tám - Huỳnh Thị Tân đã nói: “Cách mạng tháng Tám đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Đất nước bị chia cắt, chiến tranh chống Mỹ kéo dài, tôi nghĩ là người dân, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải cầm súng đánh giặc. Con tôi chết đứa này, tôi cho đi đứa khác. Còn tôi, nhiệm vụ làm mẹ chiến sĩ, tôi phải để chúng yên tâm chiến đấu cho đến ngày toàn thắng. Đó là con đường duy nhất để sống còn”.

Lời phát biểu xuất phát từ đáy lòng một người mẹ đã khiến cho nhiều người xúc động. Tấm lòng má thật bao la, sự hy sinh của má thật to lớn. Năm 1978, má Huỳnh Thị Tân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu AHLLVTND và được trao tặng Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất. Năm 1994, má Tám - Huỳnh Thị Tân được phong tặng danh hiệu cao quý Mẹ VNAH. Năm 2013, má Tám được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất. Người con dâu của má là bà Trần Thị Cảnh (vợ liệt sĩ Nguyễn Văn Quẩn, mẹ liệt sĩ Nguyễn Văn Vũ) được phong tặng danh hiệu Mẹ VNAH năm 2015. Như vậy, mẹ chồng và con dâu đều là Mẹ VNAH. Tấm gương của má Tám - Huỳnh Thị Tân mãi mãi là tấm gương sáng ngời, niềm tự hào của phụ nữ Sóc Trăng nói riêng, phụ nữ Việt Nam nói chung, đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, cho nhân dân.

“Nữ du kích Ngã Năm” nổi tiếng

Chiến tranh đã đi qua, nhưng câu chuyện về tấm ảnh “Nữ du kích Ngã Năm” trở thành nổi tiếng ở Sóc Trăng. Đó là bà Lưu Nguyệt Hồng, người con của đất Ngã Năm. Trong một lần về Ngã Năm, chúng tôi được xem một tấm ảnh chụp một nữ du kích trẻ trung, khăn rằn quấn trên đầu, mặc áo bà ba, đang kê súng trên vai, ngắm về hướng quân thù và được giới thiệu là “Nữ du kích Ngã Năm” Lưu Nguyệt Hồng. Bà Lưu Nguyệt Hồng sinh năm 1950 ở xã Vĩnh Quới, thị xã Ngã Năm. “Hồi đó tôi còn nhỏ nhưng đã phải chứng kiến sự tàn bạo của quân thù. Chúng tra tấn dã man những người chúng gọi là Việt cộng với nhiều hình thức tra tấn rùng rợn…”, bà Hồng kể lại.

Năm 1965, vừa tròn 15 tuổi, bà Hồng tham gia cách mạng. Công việc ban đầu mà nữ du kích được chỉ huy phân công là phụ trách công tác quân y của đơn vị biệt động Ngã Năm. Bà Hồng kể tiếp: “Công tác nào cũng phục vụ chiến đấu. Trong chiến đấu, khi đồng đội bị thương, tôi trực tiếp băng bó, cứu chữa cho anh em, xong rồi lại cầm súng của người bị thương tiếp tục chiến đấu với kẻ thù. Lúc bấy giờ, tôi nhỏ tuổi, nhỏ người nữa nên chuyện bắn súng là cả một vấn đề. Loại súng phổ biến của anh em lúc đó chủ yếu là súng trường “bá đỏ”. Người khỏe bắn còn ê vai huống chi người yếu. Thế mà, có trận tôi đã bắn hàng trăm viên đạn. Lúc đó, tôi đâu có nghĩ gì đến chuyện ê vai, tất cả cứ nhằm vào kẻ thù để trả thù cho đồng đội, cho đồng bào mà thôi”.

Chợ nổi Ngã Năm - một địa chỉ du lịch sông nước đặc sắc của thị xã Ngã Năm.

Chợ nổi Ngã Năm - một địa chỉ du lịch sông nước đặc sắc của thị xã Ngã Năm.

Suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, bà Hồng đã đánh rất nhiều trận, tiêu diệt được nhiều tên địch. Đến nỗi giặc ở Chi khu Ngã Năm hễ nghe đến tên bà là khiếp vía. Sợ đến nỗi chúng tìm mọi cách để bắt hoặc giết bà. Đi đâu, nghe có phụ nữ nào tên Hồng là chúng bắt, đánh đập dã man với phương châm “Trăm lần bắt trật cũng có lần bắt trúng”. Cũng vì thế mà lúc nào trong người bà cũng có sẵn một trái lựu đạn, để lỡ có gặp giặc thì rút ra “cưa đôi” với chúng.

Năm 1968, vừa tròn 18 tuổi, bà Lưu Nguyệt Hồng được vinh dự được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam và được bầu vào Chi ủy. Mấy tháng sau, bà Hồng được bầu giữ chức Phó Bí thư chi bộ… Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, bà Hồng và đồng đội bao vây Chi khu Ngã Năm suốt 52 ngày đêm. Cũng trong những ngày đó, bà là người đã hạ lá cờ 3 sọc của giặc ở Chi khu Ngã Năm và hiên ngang, kiêu hãnh kéo lên lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đó là giây phút hạnh phúc nhất trong đời bà.

“Trận đánh nào cũng đáng nhớ cả, nhưng tôi nhớ nhất là trận đánh ngày 23/11 âm lịch năm 1967 vào Chi khu Ngã Năm. Trước lúc đi đánh, thấy được tính chất ác liệt của trận đánh này, tôi gỡ đôi bông tai gửi lại cho má. Má thắc mắc thì tôi nói mang theo lỡ nó móc vào cành cây mất thì tiếc. Trận đó, theo hiệp đồng, đúng 0h là nổ súng, nhưng do anh em pháo binh bị lạc đường nên mãi đến 2h trận đánh mới bắt đầu. Lúc đó, địch chủ động phản công nên bộ đội, du kích phải rút về cố thủ tại đám lá tối trời ở Long Mỹ (nay là Hậu Giang) quần nhau với địch cho đến 2-3h chiều chúng mới lui quân. Khi đó, tôi vừa mới mổ ruột thừa được 1 tháng nên có phần đuối sức nhưng tôi quyết tâm không rời trận địa. Có lúc mệt quá, tôi ngủ thiếp đi. Khi giật mình tỉnh lại, tôi mới biết mình nằm ngủ giữa hai đồng đội đã hy sinh”, bà Hồng nhớ lại.

Trận đánh đó, bà Hồng được anh em trong đơn vị bình chọn xuất sắc nhất. Từ năm 1970-1972, bà Hồng giữ chức vụ Bí thư chi bộ Đảng tại thị trấn Phú Lộc, ngay giữa lòng địch. Năm 1973, bà giữ cương vị Hội trưởng Hội phụ nữ huyện Thạnh Trị. Đến năm 1975, bà tham gia vào ban chỉ huy “gỡ mảng chuyển vùng” của địa phương cho đến ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Trong những năm tháng chiến đấu, bà Lưu Nguyệt Hồng hai lần bị thương. Vết thương đó hiện nay vẫn hành bà mỗi khi trái gió trở trời. Về Ngã Năm hỏi cô Ba Hồng, không ai không biết, bởi bà là tấm gương chiến đấu quên mình, là niềm tự hào của nhân dân nơi đây. Sau khi quê hương được giải phóng, bà tiếp tục công tác tại địa phương. Năm 1977, bà được phân công làm Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Thạnh Trị, năm 1996, chuyển đến Sở LĐ-TB&XH tỉnh Sóc Trăng công tác cho đến lúc nghỉ hưu. Với thành tích đặc biệt xuất sắc, năm 2005, bà được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu AHLLVT Nhân dân.

Có thể bạn quan tâm

Đi trong hầm xuyên núi Đặng Thùy Trâm

Đi trong hầm xuyên núi Đặng Thùy Trâm

“Rừng khuya im lặng như tờ, không một tiếng chim kêu, không một tiếng lá rụng hay một ngọn gió nào đó khẽ rung cành cây…”, tôi đọc đoạn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm trước giờ vào khu vực núi Chúa, nơi đang thi công hầm xuyên núi thuộc dự án cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn.
Sống ở TP.HCM: 'Cắt tóc trời' kiêu hãnh tháng năm, yêu nghề đến lạ

Sống ở TP.HCM: 'Cắt tóc trời' kiêu hãnh tháng năm, yêu nghề đến lạ

Ở TP.HCM, có những người dành hơn nửa đời để làm đẹp khuôn mặt, mái đầu cho thiên hạ. Không biển hiệu, không tiện nghi hiện đại và chỉ với chiếc ghế bành sờn da, chiếc gương cũ và bộ đồ nghề, nhiều năm qua những người thợ cắt tóc vỉa hè đã góp phần làm nên một nét văn hóa rất đặc trưng của TP.HCM.
70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 8: Đồi A1 - bùn, máu và hoa

70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài 8: Đồi A1 - bùn, máu và hoa

Ngọn đồi A1 giờ đã ngủ yên dưới tán lá xanh ngát của những cây nhãn, vải, tếch, phượng đỏ, tùng, thông, đa, tre… và điểm xuyết thêm màu trắng tinh khôi của hoa ban. Du khách đến đây, ai cũng dừng lại hồi lâu trước dòng chữ “A1: bùn - máu và hoa” được đặt trang trọng trên đỉnh đồi.