Nhớ mãi cuộc rút quân ngày ấy...

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Những ngày cuối tháng 5-1972, cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở thị xã Kon Tum diễn ra vô cùng quyết liệt. Địch đã điều Sư đoàn 23 từ Pleiku lên cùng lực lượng tại chỗ rải quân phòng thủ dày đặc xung quanh thị xã, đồng thời dùng tối đa hỏa lực phi pháo ngăn chặn bước tiến của quân ta.

Sư đoàn 2 (Quân khu 5), Trung đoàn 28, Tiểu đoàn Đặc công 408 (Mặt trận Tây Nguyên) đã chiếm được một số mục tiêu trong thị xã nhưng không phát triển được. Ở vòng ngoài, Sư đoàn 320 của chúng tôi liên tiếp bị các đợt B52 rải thảm và phi pháo của địch dội xuống. Ác liệt cộng thêm những khó khăn do mưa xuống không vận chuyển bảo đảm kịp thời công tác hậu cần khiến chúng tôi ngày thêm căng thẳng, mệt mỏi và kiệt sức. Đêm 5-6-1972, đại đội tôi đang cùng Trung đoàn 64 chốt giữ ở ngã ba Trung Tín thì được lệnh rút quân.  

 

Vườn Quốc gia Chư Mom Ray (tỉnh Kon Tum). Ảnh: internet
Vườn Quốc gia Chư Mom Ray (tỉnh Kon Tum). Ảnh: internet

Cuộc rút quân thật lắm cam go. Đường rút ra thì địch chặn trước, đánh sau. Gạo ăn mỗi ngày mỗi người chỉ còn chưa đầy 3 lạng. Ác liệt, gian khổ và cái đói làm cho đường hành quân như dài ra. Đã vậy, máy bay địch lại luôn vè vè trên đầu phát ra những bản nhạc não nề và lời kêu gọi “trở về với chánh nghĩa quốc gia”. Cuộc chiến đấu quyết liệt dưới mưa bom bão đạn với quân địch những ngày vừa qua đã làm cho đơn vị tổn thất nặng nề. Cả 3 đại đội trưởng trong tiểu đoàn đều hy sinh. Hơn hai phần ba trung đội trưởng hy sinh phải thay thế. Nhiều đồng đội, trong đó có những người đồng hương, đồng ngũ của tôi cũng đã hy sinh. Gian nan, ác liệt là vậy nhưng sự tiếc thương đồng đội và niềm tin thắng lợi đã nâng bước chúng tôi cùng nhau vượt qua, tiến lên phía trước.

Quá trưa ngày hành quân thứ ba, sau khi vượt một bãi bắp rộng vào đến suối đá dưới chân dãy Chư Mom Ray thì đại đội nghỉ giải lao ăn trưa để chuẩn bị vượt dốc. Nghỉ đã lâu mà vẫn thấy thiếu cậu Hiển của khẩu đội 3. Ăn cơm xong, Trung đội cho người quay lại tìm mà không thấy. Thời gian hành quân không thể dừng được. Sau khi hội ý, Ban Chỉ huy Đại đội quyết định đơn vị tiếp tục hành quân, để lại một người tìm đón rồi đi sau. Và tôi được giao nhiệm vụ này. Tôi nhanh chóng bàn giao trang bị lại cho trung đội, nhận một khẩu AK, 3 băng đạn, 2 quả lựu đạn và 3 lưng bát gạo. Trước khi đơn vị hành quân, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Đản đến bên tôi căn dặn: “Ở lại một mình, cậu phải hết sức cảnh giác. Khi nào tìm được cậu Hiển, anh em khẩn trương đuổi theo đơn vị nhé!”.

Đơn vị đi rồi, một mình giữa núi rừng bao la, cảm giác cô đơn xâm chiếm lòng tôi. Uống một ngụm nước suối cho tỉnh, tôi bắt đầu quay lại đường hành quân cũ tìm Hiển. Bãi bắp khá rộng, cây đã cao quá đầu người đang thì kết trái trổ cờ, tôi đi theo hướng cũ nhưng chệch vào phía trong vài mét để nhỡ Hiển có mệt rẽ vào nghỉ mà ngủ quên sẽ thấy được. Hết bãi bắp, đi tiếp ra đường tăng một đoạn vẫn không thấy bóng người nào. Tôi quay lại, rẽ sang phía đối diện lúc trước, vừa đi vừa quan sát nhưng vẫn không thấy gì. Về đến bờ suối thì mặt trời đã chuẩn bị khuất sau ngọn núi phía Tây. Tôi tranh thủ đi tìm chỗ ngủ qua đêm. Thấy bên phải có đám chuối xanh tốt, tôi đi vào thấy một số hầm trú ẩn của bộ đội ta để lại. Chọn được một hầm khá chắc chắn và kín đáo, tôi dọn qua và lấy lá chuối khô rải xuống nền hầm, đưa ba lô vào rồi lấy cà mèn, trút ra nửa gạo đi ra suối lấy nước nấu cơm. Trong khi chờ cơm chín, tôi khoác súng đi một lượt quanh bãi chuối xem xét địa hình để nếu có địch còn biết đường mà xử trí. Cơm chín, tôi lấy gói muối rang ra khoét một nửa ăn, còn một nửa để lại nếu thấy Hiển để cậu ấy ăn. Ăn cơm xong thì trời đã tối mịt. Tôi xách súng ra bụi chuối gần đường ngồi đợi xem có thấy Hiển đi qua còn biết mà đón. Ngồi đã khá lâu, muỗi rừng cắn rát cả mặt mà không thấy ai. Trời lại mưa mỗi lúc thêm nặng hạt. Tôi quay lại hầm nằm nghỉ. Những tưởng người đang mệt bã, nằm xuống là ngủ được ngay nhưng nằm mãi mà không sao ngủ được. Không ngủ được thì lại nghĩ lan man. Tự nhiên tôi thấy sợ và lo. Lo và sợ vì một mình giữa đồng không mông quạnh, nhỡ không may bị bom pháo hay biệt kích thám báo vồ được thì chẳng ai biết đấy là đâu. Nhưng tôi lại nghĩ, ở đây đã xa, không có trận địa pháo nào của địch bắn tới được. Còn khu vực này cũng chẳng có gì để địch phải tung thám báo lùng sục. Chỉ còn máy bay đánh bom và B52 rải thảm, nhưng đây lại là khu vực sản xuất của dân nên địch cũng chả dại gì mang bom rải xuống chỗ không người. Đang suy nghĩ miên man, tôi bỗng thấy tiếng chạy xoàn xoạt trên mặt đất, lắng tai nghe, một lúc sau mới thấy tiếng con hoẵng kêu toác toác ở phía bờ suối.

Nỗi sợ thú dữ lại ập đến. Khu vực Chư Mom Ray này nổi tiếng nhiều hổ. Từ ngày vào Tây Nguyên, tôi được nghe nhiều chuyện bộ đội ta bị hổ vồ rất thương tâm. Có anh đang hành quân lên cơn sốt rét, rớt lại bên đường, khi đồng đội quay lại tìm thì chỉ còn nắm xương nhầy nhụa máu. Lại có anh vận tải ngồi nghỉ bên bờ suối, chờ lâu không thấy lên, anh em quay lại chỉ thấy gùi đạn ĐKZ ở đó, đi tìm sâu vào rừng thì thấy đã bị hổ xé ăn nham nhở. Suy nghĩ miên man, tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Đang ngủ mê mệt, tôi bỗng giật mình thức giấc khi có tiếng nói từ xa vọng lại. Tôi bật dậy, chụp khẩu súng thận trọng bò ra cửa hầm thì thấy trời đã sáng bạch. Tiếng động cơ vè vè của chiếc máy bay L19 cũng vừa vòng lại, rồi tiếng nói từ chiếc loa phóng thanh trên máy bay dội xuống nghe mỗi lúc một rõ: “Hỡi các bạn cán binh của Sư đoàn 320 chính quy Bắc Việt. Qua cuộc đọ sức vừa qua, các bạn đã thấy rõ sức mạnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và đồng minh Hoa Kỳ. Các bạn hãy mau tỉnh ngộ quay về với chánh nghĩa quốc gia. Quay về, các bạn sẽ được trọng dụng và đối xử tử tế. Sau đây, mời các bạn nghe lời tâm sự của một đồng đội của các bạn vừa trở về với quốc gia(!)”. Tiếng cọt kẹt từ chiếc loa phát ra, một lúc sau mới nghe được tiếng nói: “Tôi là Nguyễn Xuân...”. Đúng lúc đó, chiếc máy bay vòng lượn quay ngoắt làm cho tiếng nói hút vào không trung. Cùng lúc ấy, tôi thấy từ trên cao những tờ giấy trắng rơi lả tả xuống đất. Tôi nhặt một tờ lên xem thì thấy ảnh cậu Hiển vác chiếc chân cái của súng máy 12 ly 7 đứng trước một tòa nhà; bên cạnh là những dòng chữ liêu xiêu, nghiêng ngả của cậu ta. Sự căm phẫn kẻ đã phản bội khiến tay tôi tự nhiên vò nát tờ truyền đơn ném mạnh xuống đất. Sau phút tức giận tột cùng, bình tĩnh lại, tôi nhặt một tờ khác, gấp lại đút vào túi áo, rồi lấy ba lô đuổi theo đơn vị.

Đường lên Chư Mom Ray chỗ này dốc không cao lắm nhưng khá dài. Tôi cắm cúi vượt dốc. Sự căm giận kẻ phản bội và niềm khát khao được trở về với đồng đội khiến tôi đi không biết mệt. Đi miết, đến khi mặt trời đã tà tà thì thấy phía trước có tiếng chặt cây. Đến nơi, tôi thấy một đơn vị đang ở. Hỏi ra thì được biết, một bộ phận Tiểu đoàn 25 vận tải của Sư đoàn chốt ở đây để chuyển thương binh và thu hồi vật chất hậu cần còn lại về phía sau. Tôi nói sơ qua về nhiệm vụ của mình rồi hỏi thăm tình hình về đơn vị. Các anh cho biết, các đơn vị của Sư đoàn đang ở gần bờ sông Pô Kô, từ đây đến đó khoảng 12 tiếng đồng hồ nữa. Tôi quyết định nghỉ lại đêm nay cùng đơn vị, rồi rẽ vào phía trong tìm chỗ mắc tăng võng. Chuẩn bị xong chỗ ở, tôi vào võng nằm nghỉ cho lại sức. Đang thiu thiu thì nghe tiếng bước chân đi vào. Tôi vội ngồi dậy thì thấy một anh dáng vẻ chỉ huy đứng trước mặt, anh nhìn tôi vui vẻ nói: “Đồng chí đã có gì ăn chưa. Cầm lấy ít gạo này nấu cơm ăn rồi hãy nghỉ!”. Nói rồi, anh trút cho tôi miệng bát gạo và 3 con cá khô. Tôi cảm ơn anh và vùng dậy lấy cà mèn đi lấy nước nấu cơm ăn. Sớm hôm sau, khi thức giấc, đơn vị đã đi làm nhiệm vụ.

Còn lại nửa gạo hôm trước, tôi lấy ra nấu nốt, ăn một nửa, còn một nửa để đi đường. Tôi tiếp tục đi, trong lòng đã bớt lo lắng. Bước chân cũng thấy nhanh hơn. Cứ thế tôi đi, lúc nào mệt thì nghỉ, nghỉ rồi lại đi. Đến đoạn đường dốc xuống thoai thoải thì mặt trời đã chiếu thẳng vào mặt. Đi một thôi nữa, tôi gặp 2 chiến sĩ của Trung đoàn 48 đang khiêng nước, hỏi thăm về đơn vị, các anh tươi cười nói: “Mười sáu à. Thế thì đi 200 m nữa rồi rẽ trái!”. Theo chỉ dẫn, tôi đã tìm được về đơn vị. Tôi đi thẳng vào lán đại đội. Thấy tôi về, Đại đội trưởng Nguyễn Văn Đản và Chính trị viên Nguyễn Văn Nấp cùng chạy ra mừng rỡ: “Tấn đã về đấy à. Thế Hiển đâu?”. Tôi mệt mỏi thưa: “Báo cáo hai anh, thằng Hiển nó chiêu hồi rồi”. Vừa nói, tôi vừa móc tờ truyền đơn trong túi áo ra đưa cho Đại đội trưởng. Anh Đản liếc nhìn tờ truyền đơn bực dọc thốt ra: “Thật không ngờ!”. Chính trị viên Nấp thì đăm chiêu suy nghĩ, rồi anh quay sang tôi: “Đồng chí về trung đội nghỉ, chuẩn bị ăn cơm để tối còn vượt sông!”. Tôi về đến đơn vị, anh em ùa ra đón, Trung đội trưởng Thảnh và anh em ở các khẩu đội cũng chạy đến, mọi người cùng hỏi: “Hiển đâu?”. Tôi buồn bã: “Nó đang ở thị xã Kon Tum rồi(!)”. Nghe vậy, mọi người đều tỏ rõ sự bực bội đến tột cùng.

Đêm đó, tôi cùng đơn vị vượt sông Pô Kô sang bờ Tây, rồi hành quân vào vị trí tạm dừng. Ngày hôm sau, được phổ biến chúng tôi mới rõ: Trung đoàn 28 và 66 cùng các lực lượng pháo binh tiếp tục bao vây thị xã Kon Tum, đánh địch nống lấn, bảo vệ các khu vực ta đã giải phóng; Trung đoàn 95 và 24 tiếp tục đánh cắt giao thông trên đường 14, ngăn chặn sự vận chuyển của địch giữa Pleiku và Kon Tum. Sư đoàn 320 chúng tôi thì được lệnh lật cánh về Gia Lai cùng một số đơn vị đang đứng chân ở đây và lực lượng vũ trang địa phương mở mặt trận mới…

Năm 2012, vào dịp kỷ niệm 40 năm Chiến dịch Bắc Tây Nguyên, tôi và một số đồng đội đến thăm Trung tá Nguyễn Văn Đản nghỉ hưu ở Mộ Đạo (huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Trong niềm vui gặp lại của những người “một thời với Tây Nguyên”, anh Đản đã nhắc lại chuyện ở Chư Mom Ray và nói với chúng tôi: Ngày ấy bom đạn ác liệt, cực khổ là thế mà chúng mình vẫn vượt qua. Bây giờ kể lại, liệu có mấy ai tin!

Hùng Tấn

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null