An Khê là đầm nước ngọt lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi với diện tích 347 ha. Đầm nước này đã hào phóng ban tặng sản vật nuôi sống bao đời cư dân ven bờ.
Âm điệu mưu sinh
Cuối tháng 8 vừa qua, Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với UBND xã Phổ Khánh (TX.Đức Phổ, Quảng Ngãi) tổ chức lễ hội “An Khê sóng hát” bên đầm An Khê. Du khách tham dự hào hứng khi xem cảnh ngư dân trong vùng chèo thuyền buông - kéo lưới bắt cá, tái hiện khung cảnh mưu sinh thường ngày. Mỗi thuyền 2 người để chèo và thả lưới.
|
Những con cá chép vừa bắt lên khỏi mặt nước |
Sau tiếng loa phát hiệu lệnh xuất bến, những mái chèo khỏa nước, hàng chục chiếc thuyền lướt nhẹ trên mặt đầm tiến ra xa bờ. Nhiều du khách háo hức bước lên thuyền nhờ người chủ chèo ra tận nơi xem cảnh bắt cá trên đầm. Mặt nước xao động, lũ cá vội tìm cách ẩn thân. Làn nước trong xanh tựa tấm gương soi khổng lồ lấp lóa ánh nắng giữa chiều thu. Những đôi tay khéo léo thoăn thoắt buông lưới vào làn nước xanh thẳm.
Khi lưới chìm sâu vào nước, những thanh gỗ gõ dồn dập vào mạn thuyền khiến đàn cò trắng kiếm ăn ven bờ vỗ cánh bay cao. Những đôi tay rắn chắc vung cao mái chèo rồi đập mạnh xuống mặt nước xua cá vào lưới. Những người dân quê lam lũ bỗng chốc trở thành nghệ sĩ trình diễn vũ điệu cuộc sống. Tiếng gõ rộn ràng hòa cùng thanh âm mái chèo đập nước là những âm điệu mưu sinh lay động lòng người. “Nhiều con cá tinh khôn biết cách né tránh khi gặp phải lưới. Nhưng nếu dùng thanh gỗ gõ vào mạn thuyền và lấy mái chèo đập xuống nước khiến chúng hoảng hồn bơi loạn xạ và mắc lưới ngay”, một ngư dân cho biết.
Mái chèo khua nước thuyền lướt nhẹ. Ngư dân ngồi trên thuyền chậm rãi kéo lưới trong nắng chiều nghiêng. Đó đây có tiếng reo hò cổ vũ của du khách cùng nụ cười tươi hết cỡ trên gương mặt cư dân vạn chài. Những con cá chép, ngạnh, diếc, rô phi, thác lác... dính lưới bị kéo lên khỏi mặt nước vùng vẫy tìm cách thoát thân. Đôi tay ngư dân khéo léo gỡ cá cho vào rộng trong nước xăm xắp lòng thuyền. Thỉnh thoảng có tiếng “úi cha” và một thoáng ngẩn ngơ tiếc rẻ khi con cá lớn tuột khỏi lưới.
|
Kéo lưới bắt cá |
Du khách thi nhau bấm máy ghi lại những hình ảnh sống động trên mặt đầm nước mênh mông. Những giọt mồ hôi chảy trên gương mặt sạm đen vì nắng gió, ướt đẫm lưng áo bạc màu ngời lên vẻ đẹp mưu sinh.
Thuyền về bờ khi nắng chiều phai. Du khách cùng người dân tụ họp bên những gian hàng ẩm thực và các trò chơi dân gian ùa ra đón, trên bến dưới thuyền rộn rã tiếng cười vui. “Lúc trước tôi có qua lại nơi đây nhưng chỉ đứng trên bờ ngắm cảnh thôi. Bữa nay được đi thuyền và chụp rất nhiều cảnh đẹp, thích lắm! Tôi và bạn bè rất thích thú khi được xem cảnh thả lưới bắt cá của người dân nơi đây...”, chị Nguyễn Thị Bích Phượng, du khách đến từ TP.Quảng Ngãi, tâm sự.
Mưu sinh trong đêm lạnh
Màn đêm bao phủ khắp đất trời. Tuyến QL1A nằm bên bờ đầm nhộn nhịp xe cộ hối hả xuôi nam ngược bắc. Trên mặt đầm, bóng dáng ngư dân ẩn hiện trong bóng đêm huyền ảo. Họ lặng lẽ chèo thuyền thả lưới giữa tiếng cá quẫy làm xao động mặt nước. Khi tấm lưới cuối cùng chìm trong làn nước lạnh, họ quay thuyền về bến rồi rảo bước về nhà nghỉ ngơi. Vài giờ sau, họ xuống bến và chèo thuyền ra đầm thu lưới, sương đêm giăng khắp bốn bề. Đèn pin đội trên đầu bật sáng lấp lóa trên mặt đầm trong đêm lạnh. Đôi tay cẩn thận gỡ cá ra khỏi lưới cho vào lòng thuyền. Hồi lâu, thuyền quay vào bờ để mớ cá tươi rói kịp đến phiên chợ sớm. “Vợ chồng tôi cùng bà con ở đây thả lưới cả ngày lẫn đêm. Mỗi bữa kiếm được dăm ba trăm nghìn đồng, có khi trúng nhiều cá lên đến cả triệu”, ngư dân Trần Xiêm (ở xã Phổ Khánh, TX.Đức Phổ) chia sẻ.
|
Gõ vào mạn thuyền và đập mái chèo xuống nước sau khi giăng lưới. Ảnh: Trang Thy |
Ở tuổi 64, ông Hồ Trọng (cũng ở xã Phổ Khánh) có hơn nửa thế kỷ mưu sinh trên đầm nước. Ông thuộc nằm lòng những vũng, lạch nước trong đầm. Cả ngày lẫn đêm, vợ chồng ông cặm cụi chèo ghe giăng lưới bắt cá. Những buổi vợ ốm mệt, ông dùng chân quạt nước cho thuyền trôi chầm chậm, đôi tay lần gỡ cá ra khỏi lưới. Ngày nắng, vợ chồng ông và người làng hành nghề lưới gõ (thả lưới rồi gõ vào mạn thuyền để xua cá) vang vọng mặt đầm. Mỗi thuyền buông hàng chục tấm lưới với chiều dài mỗi tấm 30 m, cao 0,8 - 1 m giăng khắp mặt đầm. Tiếng gõ mạn thuyền và mái chèo đập xuống nước khiến cá hoảng loạn bơi tứ tung và mắc vào lưới.
Ông Trọng cho biết: “Mùa mưa, mỗi bữa làm nghề lưới gõ bắt chừng 10 ký cá diếc, bán được 500.000 đồng. Mùa nắng thì ít cá nhưng giá cao hơn. Mỗi ngày ra đầm kiếm được vài trăm nghìn đồng chứ không lo đói”.
Vợ chồng ông Trọng còn hành nghề lưới cản, gồm 2 giàn dùng để bắt cá chép cùng những loại cá lớn. Khi bầy vịt trời tung tăng bơi lặn kiếm ăn, vợ chồng ông chèo thuyền buông lưới vào làn nước trong xanh. Tầm 3 giờ chiều, vợ chồng ông chèo thuyền lần theo gỡ cá và để nguyên lưới trong nước. Hơn 1 giờ sáng hôm sau, ông bà lọ mọ ra đầm chèo thuyền kéo lưới, gỡ cá mang về bán cho tư thương chuyển lên tận các huyện miền tây Quảng Ngãi.
Quả ngọt
Ông Trọng trầm ngâm khi nhớ lại tuổi thơ khốn khó. Người cha hy sinh, bỏ lại vợ cùng hai con thơ côi cút trong căn nhà đơn sơ bên đầm An Khê. 10 tuổi, ông theo mẹ chèo ghe thả lưới trên đầm sau những giờ đến lớp. Năm năm sau, ông cùng chị gái thay mẹ mưu sinh trên đầm giữa những ngày quê hương còn chìm trong khói lửa chiến tranh. Sau khi lập gia đình, vợ chồng ông miệt mài chèo thuyền buông - kéo lưới bất kể đêm ngày kiếm tiền nuôi mẹ già và 7 người con.
An Khê là đầm nước ngọt lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, nằm ở vùng ven biển Sa Huỳnh, giáp ranh giữa 2 xã Phổ Khánh và Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ), có diện tích mặt nước 347 ha. Đầm có nước quanh năm, mực nước nơi sâu nhất là 4 m, dài khoảng 3,5 km, chiều rộng tầm 1 km nối với biển bằng sông Cửa Lỗ. Mùa mưa lũ, nước đầm tràn lên cả đồng ruộng Diên Trường và những vùng lân cận rộng mênh mông. Thuở xưa, đầm có tên gọi là Cẩm Khê, rồi Phú Khê, gắn liền với câu ngạn ngữ: “Cây Động Lá, cá Phú Khê” phản ánh đầm có nhiều cá. |
Khoản tiền kiếm được từ sự nhọc nhằn giúp vợ chồng ông nuôi các con trưởng thành và xây dựng cửa nhà khang trang. Hiện con trai út của ông bà đang là sinh viên năm thứ 2 tại TP.HCM. “Năm 1977, tôi xây căn nhà mái ngói, được hơn 10 năm thì bị mối ăn hư hại. Đến năm 1990, tôi tháo dỡ và xây căn nhà xông (nhà xây kiểu cách khá đẹp ở quê thời bấy giờ). Nhưng rồi cũng bị mối ăn nên đến năm 2015 xây căn nhà bây giờ. Ruộng đất ở đây quá ít, nếu làm nông thì đủ ăn là may rồi chứ tiền đâu lo cho con, chưa nói là đến 3 lần xây nhà. Nghề làm đầm ở đây giúp cho người dân chúng tôi nhiều lắm đấy. Nếu không làm đầm thì chắc nhiều người phải đi nơi khác tìm cách kiếm sống”, ông cho biết.
Với ông Trần Nọ (ở xã Phổ Khánh), sau 47 năm cơ cực mưu sinh trên đầm nước, ông đã hái “quả ngọt” khi 4 người con tốt nghiệp đại học và có việc làm ổn định. Thuở trước, hoàn cảnh gia đình ông hết sức khó khăn khi cha già yếu, mẹ bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường và các con đang tuổi đến trường. Cuộc sống càng túng bấn khi các con lần lượt vào đại học. Rồi dịp may mỉm cười với những mảnh đời khốn khó. “Hồi đó cá rô phi nhiều lắm, chúng giành nguồn thức ăn và lấn át các loại cá trong đầm. Tôi kéo lưới gần bờ bắt được chủ yếu là rô phi, các loại cá khác rất ít. Nhờ đó, vợ chồng tôi có điều kiện lo cho các con ăn học nên người”, ông Nọ chia sẻ. (còn tiếp)
Theo Trang Thy (TNO)