Ký ức trận lụt lịch sử năm Thìn 1964

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Từ bao đời nay, đối với người dân ở dải đất miền Trung, những cơn bão, cơn lũ hằng năm dường như đã trở thành “câu chuyện thường ngày” trong con mắt của mọi người.

Nhưng với vô vàn “câu chuyện thường ngày” ấy, đây đó vẫn có những trận cuồng phong, những cơn nước dữ khổng lồ ập đến một cách kinh hoàng và trở thành dấu ấn không bao giờ quên trong ký ức của hàng triệu triệu con người từng sống, từng gắn bó với vùng đất đầy cam go thử thách này.

Năm 2024 - năm Giáp Thìn - được nhiều người dân miền Trung nói chung, Quảng Nam - Đà Nẵng nói riêng, với độ tuổi “xưa nay hiếm”, trong đó có tôi, một cậu bé cách đây 60 năm, khi đó mới tròn 10 tuổi, đều nhớ như in và nhắc đến ký ức kinh hoàng về trận đại hồng thủy mà mình đã từng tận mắt chứng kiến. Bởi đây là trận lũ đã vượt xa sức tưởng tượng của những người dân vốn đã bao đời nay từng đối diện với sự hung dữ của thiên nhiên.

kyuc.jpg
Trận lụt năm Thìn 1964 ở Hội An (tỉnh Quảng Nam). Ảnh: Internet

Đó là vào ngày 4-11-1964, trời bắt đầu đổ những cơn mưa nặng hạt, tầm tã kéo dài suốt ngày đêm từ vùng núi cao đến đồng bằng ven biển các tỉnh ven biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Bình Định, mà Quảng Nam - Đà Nẵng là tâm điểm mãi cho đến ngày 10-11-1964. Đặc biệt, ngày 7-11-1964 (tức mồng 5-10 âm lịch) lại diễn ra hiện tượng nhật thực toàn phần càng làm cho bầu trời giữa ban ngày trở nên tối mịt mù, hòa cùng những cơn mưa khủng khiếp như trút nước làm cho ban ngày trở thành đêm tối đen.

Mưa to kéo dài không ngớt nhanh chóng tạo ra những cơn lũ ống, lũ quét từ trên các núi cao, các sườn đồi đổ xuống ngập tràn các con sông, dòng suối. Nước lũ chảy xiết dữ dội, đổ xuống từ núi cao ầm ầm như thác, tàn phá tất cả những vật cản nơi có dòng nước đi qua. Nước mạnh đến nỗi xé toạc từng cụm, từng mảng núi, từng sườn đồi, rồi cuốn theo những tảng đá to như cái nhà, những cây cổ thụ cao to nhiều người ôm không xuể cũng phải bị bật gốc trôi theo dòng nước lũ.

Trong tiểu thuyết “Gia đình má Bảy” mà nhà văn Phan Tứ đã mô tả là những trận lở đất trong cơn lũ lịch sử năm Thìn 1964 ở vùng đất Núi Thành, Tam Kỳ của Quảng Tín năm ấy đã tạo nên những cơn địa chấn kinh hoàng vì tiếng ầm ầm núi lở vang động cả một vùng trời làm át cả tiếng sấm chớp, mưa to gào thét.

Còn trong hồi ký “Dấu ấn thời gian”, ông Phạm Thanh Ba - nguyên Chánh Văn phòng Đặc khu ủy Quảng Đà lúc bấy giờ, có đoạn nói về trận lụt lịch sử này: “Mưa. Trời mưa không ngớt, mỗi ngày càng mưa nặng hạt hơn, kéo dài 9, 10 ngày liền. Nước cuồn cuộn đổ về các sông suối, tràn ngập các xóm làng. Có những thôn chỉ còn thấy thấp thỏm một vài ngọn tre trên mặt nước. Dọc vùng ranh và dọc các suối lớn sâu trong núi, một số núi lở vùi lấp nhiều kho tàng của cách mạng và một số thôn của đồng bào...”.

Nước lũ ngập tràn sông Tranh, đổ cuồn cuộn về sông Thu Bồn và biến vùng đồng bằng rộng lớn của Quảng Nam - Đà Nẵng từ Núi Thành ra đến Hòa Vang thành một biển nước trắng xóa, mênh mông vô cùng khủng khiếp. Lũ dữ làm cho vùng hạ lưu mở thêm hai cửa biển và làm thay đổi cả dòng chảy của các sông; đồng thời tạo ra nhiều vùng đất bồi khác…

Trong ký ức, tôi vẫn còn nhớ như in, ngôi nhà lá dừa của hai má con tôi ở thôn 2, xã Cẩm Thanh (Hội An) nằm ở ven sông Thu Bồn, gần Cửa Đại (Hội An). Nước lũ tràn về dâng cao làm cho ngôi nhà khá cao của má con tôi cũng ngập gần tới nóc. Má tôi phải lấy mấy tấm ván của chiếc ghe hằng ngày đi buôn bán cá gác lên xà nhà để hai má con ngồi chống lũ suốt ngày đêm. Cẩn thận hơn, má tôi phải tốc một tấm tranh dừa của mái nhà để phòng khi nước tiếp tục dâng cao có thể leo lên nóc nhà ngồi. Không những vậy, trong cơn mưa tầm tã thi thoảng lại có những cơn gió chướng làm cho ngôi nhà đung đưa như chiếc võng đến ghê sợ. Mau mà phía bên trên nhà tôi có hàng tre và hàng dương liễu vững chãi cản lại chứ không nước lũ chảy mạnh có thể cuốn ngôi nhà và hai má con tôi trôi ra biển cả bất cứ lúc nào.

Nhưng có điều cho mãi đến bây giờ tôi vẫn ám ảnh không sao quên được là suốt mấy ngày đêm liền dòng sông trước nhà tôi thi thoảng lại chứng kiến cảnh ai oán khi có tiếng người kêu cứu vọng lại đến thê lương. Do nước ngập bất ngờ không kịp chống đỡ, không còn lối thoát họ đã làm mọi cách để bấu víu với hy vọng sẽ được cứu khi phải trôi theo dòng nước lũ ra biển. Nhìn thấy cảnh tượng khi thì có người bám hoặc cột tay bên những cái tủ, cái bàn và cả trên những con thuyền nhỏ trôi từ Nông Sơn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn... xuôi về Cửa Đại thật đau đớn biết nhường nào. Nhưng tất cả những người có mặt ở trên bờ lúc đó cũng đều bất lực nhìn ra dòng sông hung dữ, cuồn cuộn nước đục ngầu cuốn theo mọi vật từ cây cối, bàn, ghế, căn nhà, trâu, bò, lợn, gà và cả những con người xấu số... vì không có phương tiện nào để có thể đi ra cứu vớt được cả.

Khi nước lũ bắt đầu rút từ từ, hàng tre ở bờ sông xóm tôi trồi lên phát hiện có một phụ nữ tóc dài quấn lại treo lơ lửng trên lùm tre. Mọi người trong thôn chặt cây tre, đưa xác người phụ nữ xuống. Do nhiều ngày ngâm trong nước xác phình to, với lại không có quan tài nên người phụ nữ được bà con trong thôn chôn ở nghĩa địa gần nhà tôi bằng cách lấy tre bó lại và đặt tên bà Bốn. Dường như các cụ trong thôn coi cái chết của người phụ nữ xảy ra vào năm Thìn 1964, nên lấy con số cuối cùng của năm đặt tên cho người phụ nữ ấy là bà Bốn.

Để ghi lại ký ức kinh hoàng của trận lũ năm Thìn 1964, tôi cũng đi tìm tư liệu được nhiều phương tiện truyền thông những năm gần đây công bố cho thấy, “đại họa năm Thìn” đã làm cho hàng nghìn làng mạc dọc theo sông Tranh, sông Thu Bồn và sông Vu Gia gần như bị xóa sổ hoàn toàn. Đại tướng Chu Huy Mân, lúc đó là Tư lệnh Quân khu 5, chứng kiến trận lụt này đã ghi lại những thiệt hại nặng nề của lực lượng vũ trang: “Núi sạt lở từng mảng kéo theo một số buôn làng của đồng bào dân tộc và một số bệnh xá, cơ quan, đơn vị. Riêng bộ đội đã có 70 cán bộ, chiến sĩ bị vùi lấp... Trận lụt đã gây ra nạn đói nghiêm trọng, đe dọa khắp vùng ven biển miền Trung, tác động sâu sắc đến nhiều mặt của cuộc kháng chiến”.

Trong khi đó, huyện Nông Sơn là địa phương bị thiệt hại nặng nhất về người và của. Riêng làng Đông An (xã Quế Phước, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam) là nơi hứng chịu tang thương nhiều nhất khi lũ đã cuốn trôi toàn bộ nhà cửa, san bằng làng mạc và đớn đau nhất là cuốn đi gần hết người trong làng, tổng cộng 1.481 người chết, chỉ còn sống sót được 19 người. Tại huyện Đại Lộc, hơn 1.200 nhà bị trôi, 253 người chết, hơn 45.000 ang lúa, bắp và vô số của cải, gia súc bị trôi. Trong đó, thiệt hại nặng nhất là các xã Lộc Quý, Lộc Sơn, Lộc Phước, Lộc Hòa, Lộc Vĩnh. Ở huyện Quế Sơn, các thôn An Toàn (xã Hiệp Thuận), Bình Kiều (nay thuộc xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức), Thạch Bích bị trôi toàn bộ nhà cửa, tài sản, hoa màu, 5.000 người chết và mất tích.

Trận lũ kinh hoàng này làm cho nhiều địa phương miền Trung từ Huế đến Bình Định thiệt hại vô cùng nghiêm trọng. Riêng Quảng Nam tổng số người chết và mất tích là khoảng 6.000 người, một sự mất mát không sao kể xiết.

Nhớ lại trận lũ năm Thìn 1964 và cơn bão số 3 (Yagi) mới xảy ra ở các địa phương phía Bắc, đúng 60 năm sau, với những tàn phá kinh hoàng của nó làm cho tất cả những ai chứng kiến cũng phải thốt lên những từ khủng khiếp và đớn đau đến tột cùng khi nó gây ra thiệt hại cho con người không sao bù đắp được. Bởi vậy, việc chung tay bảo vệ môi trường sống, chủ động ứng phó kịp thời trước những cơn cuồng nộ của thiên nhiên luôn luôn là một câu chuyện không bao giờ thừa trong mỗi chúng ta.

Theo TUYẾT MINH (baodanang.vn)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null