Hư thực hầu đồng: 'Mối tình' tay ba

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Bộ ba đồng thầy - hầu dâng - cung văn gắn kết mật thiết trong mỗi vấn hầu. Thiếu một trong ba yếu tố trên, các giá đồng khó chu viên hoàn mãn.

Cô đồng, hát văn, hầu dâng là “mối tình” tay ba không thể tách rời trên chiếu đồng
Cô đồng, hát văn, hầu dâng là “mối tình” tay ba không thể tách rời trên chiếu đồng
Khi ra giá trình đồng, cùng nhau lo việc thánh, mỗi nhân vật trong vấn hầu đảm nhận một vai trò cụ thể. Cái khó là khi thực hành nghi lễ lên đồng, trăm thầy trăm phép - nghìn thầy nghìn khuôn, để có được sự kết hợp hoàn hảo, bộ ba đồng thầy - hầu dâng - cung văn tự thân ráp nối, hợp ý từng động tác trang điểm cho đến vũ điệu, lời ca. Một trong ba khâu ấy chệch choạc dễ nảy sinh hiện tượng đồng khê - điều tối kỵ trong tín ngưỡng hầu đồng.

Chiếc gương trước bàn thờ chính để vị thánh khi nhập đồng xem lại dung nhan, ban thưởng khi hài lòng với hầu dâng đã làm đẹp cho mình
Chiếc gương trước bàn thờ chính để vị thánh khi nhập đồng xem lại dung nhan, ban thưởng khi hài lòng với hầu dâng đã làm đẹp cho mình
Biệt tài hầu dâng
Ở mỗi vấn hầu thánh, bỏ qua yếu tố tín ngưỡng, ấn tượng nhất chính là nghệ thuật sân khấu tổng hợp. Cùng là một thân xác ông đồng - bà cốt, chỉ trong thoáng chốc, họ là các bà chúa, từ chúa đệ nhất Tây Thiên, đệ nhị Nguyệt hồ chuyển sang hàng quan lẫm liệt oai phong trong giá đức ông Hoàng Mười, quan lớn Tuần Tranh, rồi lại dịu dàng, e lệ, xinh tươi trong bóng thánh người nữ qua giá cô Đôi Cam Đường, cô Tám đồi chè, cô Chín Sòng Sơn, cô Bé Thượng Ngàn, cô Bơ Thoải, tinh nghịch trong giá hầu cậu bé…
Kiêng cữ
Trước vấn hầu, nhiều ông đồng bà cốt thường nhịn ăn hoặc ăn rất ít để giữ thanh sạch, đồng thời tạo cho cơ thể một trạng thái dễ rơi vào ngây ngất. Trong nghi lễ có sử dụng rượu, thuốc lá, đều là những chất tác động đến thần kinh, dễ tạo ra ảo ảnh, giúp việc tiếp cận giữa con người với thần linh trở nên thuận lợi hơn.
Lên đồng như một hình thức nghệ thuật sân khấu tâm linh để thần linh nhập hồn vào ông đồng bà cốt, cầu mong các vị thần phù hộ. Mỗi vị trong các giá thánh mang vai trò riêng. Quan Đệ tam có thiên năng trừ tà, Quan Đệ ngũ được nhiều người xin cắt tiền duyên; gia đình con cái học hành sắp thi cử đến dâng lễ lên đức Hoàng Mười cầu mong con cái học giỏi, đỗ đạt; cô Chín có thể bói toán, chữa bệnh có cô Bơ… Khi nhập hồn, lên đồng chính là cuộc giao tiếp, thông quan giữa người trần và thần linh, là dịp thần linh trợ giúp, thỏa mãn nhu cầu con người.
Hiện tượng nhập đồng khi thánh giáng lệ thuộc hoàn toàn vào các hầu dâng ngồi cạnh, giúp việc cho ông đồng bà cốt, họ có nhiệm vụ thay xiêm áo, trang điểm, vấn khăn, đưa nhang đèn, châm rượu thuốc, che quạt, làm kết nối giữa người trình đồng và con nhang đệ tử. Biệt tài của hầu dâng là biến đổi ngoại hình cho người trình đồng, tạo cho họ dáng dấp một vị thần linh, do vậy vai trò của hầu dâng tối quan trọng. Chỉ nhìn qua nét mặt, cử chỉ của thanh đồng là có thể hiểu ngay vị thánh nhập ấy đang muốn gì. Trong số các hầu dâng người viết tiếp cận, hơn 80% là nam, nhưng hầu hết đều là ái nam ái nữ - những người rất giỏi và khéo trong việc làm đẹp. Người hầu dâng không khéo có thể phá hỏng cả buổi lên đồng, không tạo cho ông đồng bà cốt sự thăng hoa để thần linh có thể nhập vào họ.
Hầu dâng Nguyễn Khánh, thâm niên hơn 13 năm theo Mẫu, chia sẻ: “Em mất hơn ba năm theo học mới làm được hầu dâng chính. Nhìn bên ngoài thấy đơn giản, nhưng để hiểu biết được trang phục 36 giá đồng, rồi cách vấn khăn củ ấu, thắt đai, làm tóc, cài hoa… cả tỉ thứ phải làm, phải giải quyết trong vài giây ngắn ngủi cho người hầu thánh, để con nhang đệ tử nhìn rõ cái đẹp vị thánh nhập về, phải học và luyện từng ngày đấy. Mình làm đẹp cho đồng, cũng là tỏ lòng thành với Mẫu”.

Cung văn Hồng Văn Chén, người theo đuổi lối hát văn cổ trong các giá đồng. ẢNH: LAM PHONG
Cung văn Hồng Văn Chén, người theo đuổi lối hát văn cổ trong các giá đồng. ẢNH: LAM PHONG
Góc tối chầu văn
Hai yếu tố tạo nên sự phấn khích và trạng thái ngây ngất có thể nhập hồn chính là âm nhạc và vũ đạo. Là tín ngưỡng không kinh sách, không giáo lý, giáo luật… tất cả các hoạt động qua hình thức truyền miệng, kinh nghiệm, nên có thể nói trong tín ngưỡng dân gian hầu đồng, tuy hát văn chỉ là bổ trợ, thứ yếu, nhưng mọi hoạt động của nghi lễ lên đồng lại hoàn toàn dựa vào hát văn.
Hát văn hái ra tiền
Phục vụ chầu văn theo mỗi vấn hầu, trở thành nguồn sinh kế lớn cho giới hát văn. Khi đền phủ đua nở, con nhang đệ tử nườm nượp trình đồng, hát văn lên ngôi. Không khó để nhận ra nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, xẩm, quan họ… cả những ca sĩ theo dòng tân nhạc như T.L cũng ngả sang học hát văn.
Theo dự một vấn hầu ở Hải Phòng, khi dứt lễ, con nhang đệ tử lục tục ra về, đồng thầy bái lạy, cúng tạ Mẫu giáng ơn phúc, ban cho buổi trình đồng thành công. Ở góc phải đền, nhóm cung văn bốn người đến từ Nghệ An cặm cụi xếp các tờ tiền mệnh giá nhỏ đến lớn thành từng xấp, rồi tự chia thành bốn phần, không cần đếm. Vị thầy cúng hôm ấy bỏ nhỏ: “Tiền tàu xe, thuê đội này ra hết 80 củ (triệu) đấy”. Nhìn vào xấp tiền tán lộc, tiền thưởng trong mỗi giá thánh được chia đều, áng chừng mỗi cung văn cũng bỏ túi thêm gần chục triệu nữa.
Thầy Hồng Văn Chén (67 tuổi, cung văn nổi danh theo lối cổ ở Hà Nội), tâm sự: “Thời chúng tôi ngày xưa, hát văn dõng dạc lắm, khi khoan khi nhặt, hát phải tròn vành, rõ chữ, nghe câu văn câu phú chỉ một vài câu, giờ cải biên nhiều, lai căng chèo, cải lương, quan họ. Chúng tôi theo gót các cụ, cổ nhân dạy thế nào thì làm theo và ráng giữ được thế nào hay thế ấy”.
Có nhu cầu, tất có cạnh tranh, có cả những phân chia lãnh địa ngầm trong giới hát văn. Cung văn Ngọc T. ở Thái Bình nhớ lại chuyến xôi hỏng bỏng không khi diễn ở đất Mẫu Nam Định: “Đồng D.H ở Hà Nội mời bọn em xuống Nam Định, từ lúc trình đồng cho đến kết thúc, mọi chuyện đều êm đẹp, suôn sẻ. Nhưng khi bọn em ra về lại bị nhóm thanh niên chặn đường, trấn hết tiền lộc, tiền được thuê hát. Rồi bị dằn mặt cấm lần sau đến đất này làm ăn. Chuyến đó bọn em mất trắng”.
Chiêu trò phá đám cung văn khi đi diễn xứ người cũng đủ kiểu. Cung văn Thiện P. kể: “Đi hát sợ nhất là về các đền phủ ở tỉnh khác, vì thường đền phủ nào cũng có cung văn riêng. Có lần nhóm đi hát ở Hải Phòng, đang hát có mấy cu con ở đâu chạy vào, ngồi sau lưng, thỉnh thoảng lại ghé tai chửi thề, mạt sát rất nặng gây phân tâm. Có đứa ngồi cạnh lôi me chua ra giễu trước mặt. Còn những trò ngắt dây điện, cúp cầu dao… là chuyện thường. Gặp tình huống như thế, bọn em phải xử trí nhanh, chứ vấn hầu đang diễn ra, hỏng nhịp hay nuốt lời, mất lòng người trình đồng thì coi như sô đó bị bể”.
Buổi trình đồng ở đền Hai Cô - Hà Nội, người viết chứng kiến màn ghen tuông giữa vợ cung văn và cô đồng. Cung văn trẻ C.C, khá nổi trong giới, được mời hát cho cô đồng Diệp H. Khi nghi lễ đã hoàn tất, chỉ chờ cung văn là giá hầu bắt đầu, cô vợ hay tin nhất định không cho đi, dàn xếp mãi mới được với điều kiện cô vợ phải đi cùng. Cô vợ ăn mặc cực khêu gợi, ngồi sát sập công đồng, hòa nhịp múa với cô đồng trên chiếu. May mắn mọi chuyện êm xuôi, kết thúc khóa lễ, cô đồng H. bực dọc: “Anh xem, nó phá em, mặc áo hở hơn nửa ngực, muốn xổ cả bưởi ra ngoài tưởng để trêu ngươi em được. Loại đàn bà đấy em không ngại đâu”.
Một tay trong nghề tiết lộ, mùa cao điểm cung văn có thể kiếm tiền tỉ mỗi tháng, nhưng không ít cung văn sau khi kết thúc khóa hầu là đi “múa quạt” (đánh bài), nên của ăn của để chẳng còn lại là bao.
(còn tiếp)
Theo Lam Phong (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null