Đẽo thuyền độc mộc bên sông Pô Cô

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Ở đâu có sông nước, ở đó có nghề chế tác thuyền. Thế nên, trong ký ức của ông Pêng (làng Nú, xã Ia O, huyện Ia Grai) thì dọc sông Pô Cô, làng nào cũng có vài người biết đẽo thuyền độc mộc.

Trong mọi nghề của người Jrai, đẽo thuyền độc mộc có lẽ là công việc đặc biệt nhất. Nói như vậy là bởi không có công việc nào mà người thợ phải tuân thủ những lễ nghi tâm linh, những kiêng cữ nghiêm ngặt như đẽo thuyền. Nặng nhọc, nguy hiểm hay vì một lý do nào nữa, người thợ không cần cắt nghĩa, họ chỉ biết tuân thủ những gì truyền lại từ thuở ông bà.

 Một nhóm thợ đang đẽo thuyền độc mộc. Ảnh: Diệu Hằng
Một nhóm thợ đang đẽo thuyền độc mộc. Ảnh: Diệu Hằng


Khi người thợ tháo chiếc rìu trên vách xuống (chiếc rìu chỉ dùng duy nhất cho việc đẽo thuyền) theo bạn vào rừng, cũng là lúc vợ ở nhà bắt đầu thực hiện mọi điều kiêng cữ: không được làm những công việc nặng nhọc như bổ củi, cuốc đất; không được tắm rửa, kể cả gội đầu và nhất là không được làm rượu cúng Yàng.

Trong khi đó thì người thợ bắt đầu việc khó khăn đầu tiên là tìm cây. Cây dùng làm thuyền được chọn thường là sao xanh. Đây là loại gỗ có những đặc tính như: nhẹ, chịu nước, không nứt nẻ… Cây làm được thuyền chu vi phải từ một người ôm trở lên, dài 5-6 m, không chà ngạnh. Tìm được cây gỗ ưng ý rồi, trước khi hạ nó xuống, người thợ phải bày lễ cúng. Lễ vật thường là một con gà, một ghè rượu. Trong lời khấn, người thợ niệm thần núi, thần nước cho cây gỗ đổ xuống an toàn, cho công việc đẽo thuyền thuận lợi, chủ thuyền gặp nhiều may mắn… Có niềm tin tâm linh rồi, người thợ mới hạ cây xuống, bắt tay vào giai đoạn khó khăn nhất, tốn nhiều công sức nhất: đẽo thuyền. Một con thuyền cỡ trung bình, người thợ phải cần thời gian tối thiểu nửa tháng ở rừng. Tuy nhiên, vấn đề không phải là thời gian. Khác với thuyền ghép bằng ván là dễ điều chỉnh cho cân bằng so với mặt nước, độc mộc nếu tính sai chiều cây gỗ hay vách thuyền, lòng thuyền có độ dày không đồng đều là khi thả xuống nước sẽ lệch, ụp xuống ngay. Điều nghiệt ngã là tục lệ quy định khi thuyền đã hạ thủy thì người thợ không được phép sửa chữa, dù chỉ là những chi tiết nhỏ. Để cho ra đời một con thuyền hoàn hảo ngay tại rừng với công cụ duy nhất là chiếc rìu trong tay, người thợ không những phải có con mắt tinh tường và đôi tay khéo léo bẩm sinh mà còn phải biết vận dụng những kinh nghiệm của người trước để lại. Trong những kinh nghiệm ấy có những điều khá là… huyền bí. Chẳng hạn để kiểm tra độ cân bằng của con thuyền, họ lật úp nó xuống, đặt một quả trứng gà theo chiều đứng vào chính giữa lưng thuyền. Nếu quả trứng không đổ thì chiếc thuyền khi xuống nước đảm bảo sẽ không nghiêng lệch.

Dù chỉ là tài sản mang tính bình dân nhưng lễ cúng thuyền vẫn được gia chủ tổ chức khá trang trọng và đó cũng là niềm vui chung của dân làng. Người có gà góp gà, người có rượu góp rượu cùng với chủ thuyền hình thành một bữa tiệc cộng đồng. Cùng với những lời chúc tụng, người thợ sẽ được chủ thuyền mời rượu trước tất cả mọi người như một phần thưởng và sự tôn vinh tài năng.

 Thuyền độc mộc. Ảnh: Ngọc Tấn
Người dân chèo thuyền độc mộc trên sông Pô Cô. Ảnh: Ngọc Tấn


Vào nghề từ lúc còn thanh niên, ông Pêng không thể nhớ mình đã làm nên bao nhiêu con thuyền độc mộc như thế. Xưa kia, các làng dọc sông Pô Cô này nhà ai mà chẳng có thuyền! Con thuyền độc mộc gắn với mỗi bước chân lên rẫy, với mỗi niềm vui, nỗi buồn trên sông. Đặc biệt là những tháng năm chống Mỹ, hình ảnh người Anh hùng A Sanh cùng với con thuyền độc mộc đưa bộ đội vượt sông vào chiến trường đã hóa thân vào thơ, nhạc. Thực ra không chỉ A Sanh, biết bao người dọc sông Pô Cô này đã hóa thân thành những A Sanh lặng lẽ. Chính ông Pêng cũng là một “A Sanh”, cũng đã góp sức vào công việc đưa đò cho bộ đội hơn một năm ròng. Cùng với thành tích 10 năm tham gia du kích, ông Pêng đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhì.

Không còn phải đi làm rẫy kiểu như thời còn du canh du cư, rồi thì rừng càng ngày càng lùi xa, gỗ lớn làm thuyền không còn… Đặc biệt là sự xuất hiện của những chiếc xe máy đã khiến niềm vui sông nước nguội dần. Người ta đua nhau bán thuyền. Có thời mỗi con thuyền còn sử dụng được trên chục năm chỉ có vài triệu đồng tùy lớn nhỏ. Làng Nú của ông ngày xưa nhiều thuyền độc mộc là thế nay chỉ còn lác đác mấy nhà giữ được.

Biết là thời thế không thể khác mà ông Pêng vẫn thấy nao lòng...

 

 ĐĂNG VƯƠNG
 

Có thể bạn quan tâm

Trở về nẻo thiện

Trở về nẻo thiện

Hiểu được không nơi nào bằng, yên bình như buôn làng, những già làng, người có uy tín ở Gia Lai kiên trì đêm ngày vận động, giải thích cho người dân không nghe theo lời dụ dỗ của “Tin lành Đê Ga”.

Căn nhà của bà Đào bị đổ sập hoàn toàn trước cơn lũ dữ.

Những phận người ở rốn lũ Tuy Phước

(GLO)- Chỉ trong vòng nửa tháng, người dân vùng rốn lũ Tuy Phước phải gồng mình gánh chịu 2 đợt bão lũ lịch sử. Bên cạnh những căn nhà trơ trọi sau lũ, những phận người trắng tay vẫn cố gắng gượng dậy, với hy vọng được dựng lại mái ấm và cuộc sống yên bình.

Chuyện cổ tích của buôn làng

Chuyện cổ tích của buôn làng

(GLO)- Ở làng Tươl Ktu (xã Đak Đoa), khi nhắc đến vợ chồng bác sĩ Nay Blum - H’Nơn, người dân nơi đây luôn kể về họ như kể lại những câu chuyện cổ tích. Với họ, đôi vợ chồng bác sĩ ấy là quà của Yang tặng cho làng Tươh Ktu.

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

(GLO)- Các cơ quan chức năng, nhất là ngành Công an, chính quyền địa phương là lực lượng chủ công trong phòng, chống mua bán người. Tuy nhiên, toàn xã hội cũng phải cùng vào cuộc và quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải chủ động bảo vệ mình bằng cách nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

null