'Đảo bộ đội' ở biển Tây Nam: Trung đội Hòn Từ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Hòn Từ là đảo nhỏ có diện tích khoảng 1 km2, cách đảo Thổ Chu khoảng 5 km về phía đông bắc.
Đây là đảo quân sự, không có dân sinh sống, và từ năm 1975 đến nay luôn có 1 trung đội phòng thủ đảo của Trung đoàn 152 (Quân khu 9) đóng trên đó, gọi là Trung đội Hòn Từ.
Tấm khiên phía bắc
Lần thứ 4 ra Thổ Chu, chúng tôi mới sang được Hòn Từ. Mấy lần trước, hoặc do thời gian quá ngắn, hoặc do thời tiết xấu sóng to gió lớn, và tất nhiên có cả lý do “đảo quân sự, cấm mọi đối tượng lên đảo trái phép”.
Đầu giờ chiều một ngày gần cuối năm 2021, trung tá Nguyễn Thừa Hoàng (Phó chính ủy Trung đoàn 152) giục: “Nhanh sang Hòn Từ. Tranh thủ lúc sóng đang giảm cấp”. 20 phút từ Sở Chỉ huy sang bãi Dong, đã thấy chiếc ca nô CQ nổ máy đợi cách bờ cả chục mét, bộ đội Tiểu đoàn 1 ngâm mình dưới biển, chuyển lương thực, thực phẩm bọc bao ni lông, sang Hòn Từ.
Đứng ở bãi Dong nhìn sang, thấy Hòn Từ gần xịch, nhưng chiếc ca nô vòng lượn tránh sóng cả tiếng đồng hồ, mới cập được bến tạm phía đông bắc của đảo. Cả chục chiến sĩ của Trung đội Hòn Từ đợi sẵn, bắt dây và gò lưng kéo, giữ ổn định chiếc ca nô chồm lên thụp xuống theo sóng. Bấm chân lên bậc đá dốc ngược cả trăm mét, là tới trạm gác số 1.
Thiếu tướng Lê Xã Hội (nguyên Phó tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân khu 9) nhớ lại, tháng 5.1975 ông là phó trưởng phòng tác chiến thuộc Bộ Tham mưu Quân khu 9 ra kiểm tra, xây dựng phương án phòng ngự cho đảo Thổ Chu sau giải phóng: Vị trí Hòn Từ rất hiểm yếu, trấn giữ phía đông bắc của đảo Thổ Chu, giống như khiên chắn và nếu mất tấm khiên này, toàn bộ Thổ Chu sẽ bị cắt đứt đường liên lạc - tiếp tế với đất liền. Cũng vì vậy mà trước 30.4.1975, quân lực VNCH đã bố trí 1 trung đội bảo vệ. Ngày 10.5.1975, khi lính Khmer Đỏ đổ bộ chiếm giữ trái phép Thổ Chu, chúng cũng đưa 1 trung đội bộ binh có hỏa lực mạnh sang Hòn Từ, lập tuyến phòng thủ trước hướng tiến công của ta từ Năm Căn, Rạch Giá, Nam Du, Phú Quốc.
Trưa 27.5.1975, sau khi gọi hàng thành công trung đội lính Khmer Đỏ ở đây, thượng úy Võ Hồng Thanh (Tiểu đoàn trưởng 410, Trung đoàn 195) đã lệnh cho 1 trung đội bộ binh chốt giữ ở các trận địa trên đảo Hòn Từ. “Tôi sang kiểm tra, thấy anh em dựng lán tạm dưới gốc cây, cơm ăn thì toàn cá khô mắm kem, nước uống dè sẻn từng bi đông. May bên ấy rừng rậm nguyên sinh, thay nhau đi tìm rau rừng về nấu canh cho đỡ xót ruột”, thiếu tướng Lê Xã Hội kể vậy, và trầm giọng: “Khmer Đỏ luôn rình rập chiếm Hòn Từ, để khống chế cả Thổ Chu”…

Các chiến sĩ thuộc Trung đội Hòn Từ. Ảnh: M.T.H
Các chiến sĩ thuộc Trung đội Hòn Từ. Ảnh: M.T.H
Tiếp tế mỗi tuần 1 lần
46 năm sau ngày thống nhất, những người lính giữ đảo Hòn Từ không còn ở trong lán trại tạm bợ, hết cảnh ăn uống thiếu thốn đơn giản, nhưng sự vất vả nơi tuyến đầu Tổ quốc thì vẫn còn: Không có điện lưới, mỗi buổi tối chạy máy nổ mấy tiếng đồng hồ để có ánh sáng cho bộ đội xem thời sự trên VTV, học tập; doanh trại là 2 dãy nhà cấp 4 xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ 20 đã xuống cấp, cũ kỹ từ vách tường, trần nhà…
Mặc dù chỉ cách đảo lớn Thổ Chu khoảng 5 km, nhưng việc liên lạc bằng điện thoại là vô cùng khó khăn. Đại úy Nguyễn Tấn Sỹ (Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 152) kể: “Mỗi khi cần gọi điện thoại, phải lội bộ vài trăm mét ra đúng tảng đá nằm phía đông nam ngay cạnh mép nước. Thiết bị gọi phải là… cục gạch và chỉ dùng sóng Viettel”.
Binh nhất Nguyễn Văn Qui (20 tuổi) nhanh nhảu: “May có các chú sang thăm, nên tụi con được tiếp tế mấy cây đá lạnh”. Ở Hòn Từ, mọi lương thực, thực phẩm đều trông vào nguồn cung cấp từ đảo lớn Thổ Chu. Mỗi tuần 1 lần, ghe hậu cần chở sang từ gạo, muối, rau củ quả, thịt cá cho đến các đồ sinh hoạt thiết yếu. Do không có điện và không thiết bị bảo quản, nên bộ đội nghĩ ra sáng kiến lấy tủ cấp đông cũ đã hỏng, chèn đá cây và bao bì, quần áo cũ… để giữ lạnh thực phẩm.
“Đá cây chỉ lạnh được vài ngày, đến ngày thứ 5 - 6 mà không thay đá là hư hết đồ, lại phải ăn đồ khô và rau củ tăng gia ngoài vườn”, trung sĩ Huỳnh Quang Thiện nói vậy, và khoe: “Trước đây thiếu nước ngọt nên sử dụng luôn tiết kiệm và luôn trông chừng bể chứa vơi đến đâu. Giờ thì khỏi lo về nước vì cấp trên mới xây hồ chứa to bự trên đảo. Tắm giặt đủ nước, rất thích”.
Đêm trên đảo Hòn Từ, chúng tôi tỉnh dậy lần mò trong bóng tối ra nhà vệ sinh, giật mình vì tiếng hô: “Ai? Mật khẩu”. Nhận ra khách, trung sĩ Đinh Như Ý mới hạ nòng khẩu AK, dịu giọng: “Trên đảo rất nhiều rắn lục đuôi đỏ cực độc, các chú đi lại cẩn thận”. Lúc ấy mới nhìn ra chiến sĩ Ý mặc nguyên bộ quần áo mưa, mang ủng đi gác để chống rắn rết tấn công.

Khu mộ vô danh trên đảo Hòn Từ, do bộ đội Trung đoàn 152 lập và chăm sóc
Khu mộ vô danh trên đảo Hòn Từ, do bộ đội Trung đoàn 152 lập và chăm sóc
Gian nan thử sức
Thiếu úy Võ Hải Đăng là Trung đội trưởng Hòn Từ. Đăng năm nay 23 tuổi, quê ở xã Trần Phái, nghèo nhất huyện nghèo Đầm Dơi (Cà Mau) nên rất cương nghị, rắn rỏi. Tốt nghiệp chuyên ngành Chỉ huy tham mưu binh chủng hợp thành của Trường đại học Nguyễn Huệ (Sĩ quan Lục quân 2) ở Long Thành (Đồng Nai) tháng 9.2020, Đăng được điều ra Thổ Chu nhận công tác ở Trung đoàn 152, và ngay sau đó sang Hòn Từ làm trung đội trưởng.
Tuổi quá trẻ, mới rời ghế nhà trường, lại đảm nhận nhiệm vụ chỉ huy toàn diện ở hòn đảo tiền tiêu cấp 1, nên những ngày đầu, thiếu úy Đăng rất bỡ ngỡ. “Mấy chục chiến sĩ sàn sàn tuổi, có người còn hơn tuổi mình (do đi nghĩa vụ quân sự muộn), mỗi người một tính nết, hoàn cảnh… phải hòa đồng gần gũi với tất cả, phải làm bạn với nhau, xong mới làm chỉ huy”, Đăng tâm sự vậy, và cười: “Ở nơi cái gì cũng thiếu này, nếu không gắn bó với nhau bằng tình người, thì không thể tồn tại, hơn nữa là sống với nhau”.

Mũi đá phía đông của đảo Hòn Từ
Mũi đá phía đông của đảo Hòn Từ
“Đảo lớn Thổ Chu đã vất vả, bên Hòn Từ này còn gian nan gấp mấy lần”, đại tá Dương Đình Mười, Trung đoàn trưởng 152, trầm giọng: “Lễ tết, dù bão gió đến mấy, chỉ huy trung đoàn cũng sang thăm, động viên bộ đội. Anh em toàn tuổi 20 như con cháu mình, thời này ở đất liền chẳng thiếu gì, nhưng ra đây làm nhiệm vụ cả năm trời biền biệt trên đảo nhỏ, là nghị lực lắm”.
Tự nhiên chúng tôi lại nhớ buổi sáng hôm ấy trên Hòn Từ, thiếu úy Võ Hải Đăng cùng mấy chiến sĩ cặm cụi thay lá cờ mới. Đăng bảo: “Ngoài này gió, cứ vài bữa là cờ rách, bạc màu. Đảo nhỏ hay lớn cũng là địa đầu Tổ quốc, đã khoác áo lính thì phải quyết giữ gìn”.
(còn tiếp)
Theo Mai Thanh Hải (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null