Bào mòn... sức lao động - Kỳ 4: Cơ sở để nâng lương tối thiểu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Nỗi lo xuyên suốt, bao trùm các ngành, các cấp trước đòi hỏi tăng lương tối thiểu là liệu sự đội giá do tăng lương có làm giảm lợi nhuận sản xuất đến mức đầu tư nước ngoài sẽ rẽ qua các nước có chi phí lao động thấp hơn hay không. Chúng tôi sẽ làm rõ vấn đề này.



Những con số xác thực

Đại dịch Covid-19 làm bộc lộ những điều vẫn khuất lấp trong điều kiện bình thường. Trong suốt thời gian giãn cách xã hội, thực hiện ba tại chỗ, hai điểm đến, một cung đường. Chi phí sản xuất tăng cao. Một doanh nghiệp ngành dệt may cho biết: giá bông từ 1,5 USD/kg tăng lên 2,7-3 USD/kg; than chạy nồi hơi 2.000-3.000 đồng/kg, hóa chất thuốc nhuộm tăng 50-100%; tóm lại chi phí sản xuất tăng trung bình 70%, có doanh nghiệp tăng tới 100%. Ấy vậy mà hầu hết các doanh nghiệp vẫn có lãi. Những doanh nghiệp nhỏ, dưới 500 công nhân lãi chừng 5-6%. Những doanh nghiệp hơn 1.000 công nhân trở lên có thể lãi 15-16%. Có nghĩa là trong trạng thái hoạt động bình thường, mức lãi của doanh nghiệp có thể lên tới 70-100% giá thành sản phẩm.

 Nâng lương tối thiểu tạo tiền đề cải thiện chất lượng nhà đầu tư.
Nâng lương tối thiểu tạo tiền đề cải thiện chất lượng nhà đầu tư.


Chúng tôi hiểu rằng, việc trích dẫn những con số cụ thể từ một nguồn tin khuyết danh sẽ kém thuyết phục. Chính vì vậy, chúng tôi đã cố sưu tầm ba bộ hồ sơ vay vốn ngân hàng của các doanh nghiệp dệt may, da giày trong đó mức lãi dự kiến đều từ 12% trở lên. Có thể khẳng định rằng dệt may, da giày là ngành lao động vất vả nhất, thu nhập vào loại thấp nhất và là một trong những ngành mang lại lãi “khủng” nhất. Theo Forbes, hơn 90% dòng tiền FDI vào Việt Nam chỉ tập trung trong các ngành giản đơn như may mặc, da giày, chế biến lương thực-thực phẩm, lắp ráp linh kiện điện tử. Đây là những ngành có xu hướng sử dụng lao động tay nghề thấp, thậm chí chưa cần qua trường lớp đào tạo. Như vậy, nhân công giá rẻ chính là bí quyết thu lợi nhuận khủng của những ngành sản xuất giản đơn này. Việc yêu cầu người sử dụng lao động san sẻ một phần lợi nhuận khủng của mình để nâng lương tối thiểu cho người lao động là một đề nghị hợp lý, hợp tình.

Lợi cả đôi bên

Trong các cuộc đàm phán gay gắt của Hội đồng Tiền lương quốc gia luôn tồn tại những quan niệm chưa thỏa đáng như: năng suất lao động của ta thấp chỉ đáng hưởng lương thấp; nâng lương tối thiểu sẽ làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, làm mất sức thu hút đầu tư nước ngoài… Như chúng tôi đã chỉ rõ ở trên. Một trong các quan niệm của đại diện người sử dụng lao động trong Hội đồng Tiền lương quốc gia là đồng tiền tăng lương cho người lao động là đồng tiền mất đi từ người sử dụng lao động. Trên thực tế mối quan hệ lành mạnh nhất giữa người sử dụng lao động và người lao động là đồng hành, cùng san sẻ lợi ích. Tại nhà máy sản xuất găng tay y tế xuất khẩu ở Khu công nghiệp Sóng Thần 3 (Bình Dương), chủ doanh nghiệp Huỳnh Uy Dũng cho biết: Một công nhân học việc hưởng lương 7,5 triệu đồng/tháng, được nhận chính thức sẽ là 10,5 triệu đồng/tháng. Bữa ăn ca là 25 nghìn đồng, ông thêm 5 nghìn đồng mỗi suất cho bữa ăn bảo đảm chất lượng cho người lao động. Bù lại sản phẩm găng tay y tế của ông vượt chất lượng xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu.

Theo một nghiên cứu về mối quan hệ giữa tiền lương và năng suất lao động của Đại học Harvard: Về lợi nhuận, việc tăng lương thêm 1 đô-la sẽ làm tăng năng suất lên hơn 1 đô-la, tạo động lực cho công ty trả nhiều hơn, ngay cả khi họ có thể trả mức lương thấp hơn.

Có thể khẳng định rằng, việc tăng thu nhập cho người lao động thu nhập thấp sẽ đem lại sự tăng năng suất lao động đáng kể làm lợi cho người sử dụng lao động. Ngay cả khi sự tăng năng suất lao động ấy không được khả quan như những nghiên cứu khách quan và độc lập ở trên đã chỉ ra, thì cũng có thể chắc chắn rằng sự tăng năng suất lao động ấy cho phép phân phối hợp lý giữa quyền lợi của người lao động và lợi nhuận của người sử dụng lao động. Đây là cơ sở khoa học, khách quan cho việc tăng lương tối thiểu mà không cần xem xét đến những lo lắng của những người vẫn tự nhận là đại diện cho người sử dụng lao động.

Thay lời kết

Khi làm việc với nhóm phóng viên báo Thời Nay, Phó Ban Quản lý khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng Trần Văn Tỵ cho biết: Trong thời gian ba tại chỗ, có những nữ công nhân may làm việc đạt thu nhập 21 triệu đồng/tháng. Với mức lương ban đầu chỉ gần 7 triệu đồng, để có mức thu nhập trên, nữ công nhân đã phải làm việc 18-19 giờ/ngày. Và đáng buồn, đây hoàn toàn không phải tình trạng cá biệt. Một chủ doanh nghiệp giải thích: khi thực hiện ba tại chỗ, người công nhân không làm việc cũng chẳng biết làm gì nên chỉ ăn, ngủ và làm. Dù giải thích thế nào thì tình trạng vắt kiệt sức lao động của công nhân đã diễn ra phổ biến suốt thời kỳ đại dịch.

Điều cuối cùng muốn trao đổi là mốc làm việc 8 giờ một ngày. Đây là một thành tựu vĩ đại của những người lao động trên toàn thế giới, đến mức số đông coi nó là bất di bất dịch. Thực chất giờ làm việc của người lao động từ hầu như cả ngày trừ thời gian ăn, ngủ được rút dần xuống còn 8 giờ/ngày. Đây là khoảng thời gian mà một người lao động vừa sản xuất ra lợi nhuận cho người chủ và mức tiền công bảo đảm cuộc sống cho mình. Lịch sử chứng minh rằng khoa học, công nghệ càng phát triển, trình độ quản lý, tổ chức sản xuất càng tăng lên, khoảng thời gian sản xuất cần thiết để bảo đảm nuôi sống mình và lợi nhuận cho người chủ càng rút ngắn xuống. Có nghĩa là với mốc làm việc 8 giờ được thiết lập từ 80 năm trước, giờ đây ngày chỉ 8 giờ làm việc mỗi ngày cũng đã bắt đầu tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho người sử dụng lao động.

Vì tất cả lẽ đó, một mốc tiền lương, thu nhập mới cân bằng hơn quyền lợi của người lao động và lợi nhuận của người sử dụng lao động vào thời điểm này là hợp lý và cần thiết.

https://nhandan.vn/baothoinay-xahoi-phongsu/bao-mon-suc-lao-dong-ky-4--680431/

Theo Bài và ảnh: NHÓM PHÓNG VIÊN ĐIỀU TRA (NDĐT)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null