Văn hóa

Văn học - Nghệ thuật

Văn học và số phận con người

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Kỷ nguyên mới mà Ðảng ta đang dồn sức dẫn dắt toàn dân tộc vươn tới, hiểu một cách nôm na là kỷ nguyên mà toàn dân tộc ai cũng hạnh phúc. Hay như lời Bác Hồ giản dị-“…dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. 

Và lẽ tự nhiên, văn học Việt Nam tự mình phải đồng hành cùng khát vọng này.

Từ xưa tới nay, văn học, dù là thơ hay văn xuôi, muốn tồn tại, muốn vượt lên, đều phải viết về số phận con người. Con người phải là chủ đề trung tâm của văn học, người sáng tạo phải nuôi dưỡng khát vọng muốn thể hiện ở chiều sâu nhất số phận con người từ nhiều góc độ.

Nói cách khác, những gì còn lại với thời gian đều gắn bó sâu sắc với con người, xa xưa đã vậy và mãi mãi sẽ vậy.

1. Nhà thơ lỗi lạc thời nhà Đường-Đỗ Phủ, làm thơ về số phận con người, thông qua số phận cá nhân mình, và thơ ông đã còn lại sau hàng nghìn năm.

Đơn cử như bài thơ Mao ốc vi thu phong sở phá ca (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá) ra đời năm 761, Đỗ Phủ viết: “Ước được nhà rộng muôn ngàn gian/Khắp thiên hạ, kẻ sĩ nghèo đều hân hoan/Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn/Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt/ Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!” (Bản dịch của nhà thơ Khương Hữu Dụng).

Từ nỗi đau của cá nhân mình, thân phận mình, Đỗ Phủ đã mở ra nỗi đau của cả cộng đồng, của nhân dân mình. Và ông ao ước phải chi mình có được “nhà rộng muôn ngàn gian” đủ che mưa che nắng cho “khắp thiên hạ”, để “kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Từ số phận cá nhân, mở ra số phận con người nói chung, đó là thơ Đỗ Phủ.

Nhiều người trong chúng ta không quên truyện ngắn tuyệt vời của văn hào Nga Mikhail Sholokhov, nhan đề truyện đã nói lên tất cả-Số phận con người.

Truyện viết năm 1957, kể về một người lính Hồng quân Liên Xô sau Chiến tranh vệ quốc, anh giải ngũ nhưng không về quê hương mà về làng quê bạn, làm nghề lái xe tải chở hàng hóa về các huyện và chở lúa mì về thành phố. Và anh đã gặp một em bé mồ côi vì chiến tranh.

Cảm thương số phận em bé cô đơn, anh đã nhận em bé làm con nuôi. Nhưng rồi, số phận vẫn không cho anh được yên. Anh mất việc và 2 bố con anh lại dắt nhau đi về một chân trời nào xa tít tắp để tìm một cuộc sống mới…

Nhà văn nhìn theo hai bố con dần khuất lấp nẻo xa, lòng ông trào lên bao day dứt. Truyện ngắn ra đời như vậy, một truyện ngắn-rất ngắn, nhưng được người đọc liệt vào thể loại “tiểu anh hùng ca”.

Mikhail Sholokhov về sau được trao giải Nobel Văn học vào năm 1965 cho toàn bộ sự nghiệp của ông, trong đó truyện ngắn Số phận con người được nhắc đến khá nhiều vì tính nhân loại của nó.

Tác phẩm Đại hội quân nhân Sư đoàn 5 của họa sĩ Huỳnh Phương Đông sáng tác năm 1965.

2. Khi tôi viết trường ca Những người đi tới biển, trường ca đầu tiên của mình, tôi coi đó là quá trình tự nhận thức của tôi về nhân dân, về đồng đội, về những gì mình nhận được khi hòa vào cuộc chiến đấu chung.

Có một đoạn thơ trong trường ca này, khi viết về những em giao liên, tôi nhớ đến ngọn đuốc từ trái tim Danko tỏa sáng trong rừng đêm. Nhưng các em không hề riêng lẻ như bó đuốc Danko.

Một mình trong rừng đêm, nhưng các em giao liên luôn tự tin và không hề sợ hãi vì em biết quanh mình là đồng đội. Khi cất lên tiếng hát về những cánh rừng miền Đông, em giao liên cảm thấy cây rừng cũng là đồng đội của mình-“bấy giờ em bé giao liên vừa vạch lối đi vừa khe khẽ hát/bài ca những cánh rừng miền Đông/nơi chúng mình đã sống nhiều năm/đẩy lùi từng mảng tối/dứt phăng những dây leo ma quái/nâng niu từng vệt nắng xanh”.

Tôi đã học theo em giao liên, khi cảm nhận tình đồng đội qua từng lời ca, mỗi hơi thở. Thực tế cuộc chiến đấu cho tôi nhận thức ấy, điều mà ngày chưa thực sự vào chiến trường, tôi chưa có được-“bài ca và ngọn lửa/ tôi đi trong ánh sáng mọi người” (Những người đi tới biển). Để có thể vững bước trong ánh sáng của mọi người, thì phải biết mình chỉ là một phần rất nhỏ bé của toàn thể, và phải khắng khít với toàn thể ấy.

Tôi còn nhớ, hồi ấy, những giao liên hầu hết còn rất trẻ, nhưng kinh nghiệm chiến trường của họ lại rất già. Giao liên ở chiến trường miền Đông có những gian khổ của miền Đông, giao liên ở chiến trường miền Trung và miền Tây Nam Bộ lại có những hiểm nguy ở những vùng tranh chấp khốc liệt nơi đó. Tôi may mắn được kinh qua nhiều dạng chiến trường và có dịp được nhiều giao liên dẫn dắt.

“Tôi đi trong ánh sáng mọi người” là đi trong ánh sáng của đồng đội, của những người dẫn đường và hiểu rộng ra nhiều hơn chính là tôi đang đi giữa, đi cùng nhân dân, được nhân dân nuôi nấng, bảo vệ, chuyện như thế có lẽ chỉ ở Việt Nam mới có.

3. Với niềm tin yêu hy vọng sắt son, với mục tiêu rõ ràng, con người ta hoàn toàn có thể vượt qua mọi khó khăn kể cả sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh, xây dựng cuộc sống tự do, yên lành, hạnh phúc. Và với khát vọng sáng tạo vì dân tộc, nhà văn có thể làm tốt nhiệm vụ “người thư ký của thời đại”.

Rất nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam có một phần đời đi qua các cuộc chiến tranh, trực tiếp tham gia chiến tranh, đã hiểu chiến tranh là thế nào, hẳn sẽ không thể bỏ qua chủ đề “số phận con người” cho tác phẩm của mình. Tài năng sẽ quyết định cho tác phẩm ấy sống được bao lâu, nhưng phải viết, trước khi nghĩ tác phẩm ấy còn lại với thời gian.

Hay như Mikhail Sholokhov đã khuyên nhủ-Cứ viết, cái gì tới sẽ tới!

Có thể bạn quan tâm