Xây dựng chính sách, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm
Theo đại biểu (ĐB) Đồng Ngọc Ba (thành viên đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai), những thành công trên các mặt kinh tế-xã hội năm 2025 và 5 năm qua có một nguyên nhân rất quan trọng cần được nhấn mạnh là cả bộ máy, nhất là Chính phủ đã có sự đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy, cách làm từ mô hình thiên về “quản lý” từng bước sang mô hình “quản trị hiện đại”, phục vụ, kiến tạo phát triển.
Ở đây, ĐB Ba đánh giá cao vai trò, đóng góp rất quan trọng của các bộ như Nội vụ, Tư pháp.
Thời gian tới, thách thức còn rất lớn, như vẫn còn nhiều điểm nghẽn, bất cập về thể chế và thực thi pháp luật, mô hình tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào vốn và lao động giá rẻ; cải cách doanh nghiệp nhà nước chậm và chưa thực sự “quản trị vốn nhà nước theo thị trường”. Phối hợp liên cấp, liên ngành còn nhiều điểm yếu; dữ liệu và tích hợp thông tin quốc gia còn hạn chế, chia cắt; hạ tầng và quản trị rủi ro, “kháng chịu” thiên tai chưa đủ mạnh. Phân quyền, phân cấp, nhất là cho địa phương còn khó gặp khó về năng lực cán bộ, hạ tầng số…
Trong điều kiện đó, đòi hỏi bộ máy cần được khẩn trương tăng cường năng lực quản trị hơn bao giờ hết.
Theo ĐB Đồng Ngọc Ba, trong rất nhiều việc phải làm thời gian tới, xây dựng chính sách, pháp luật vẫn là trọng tâm. Trước yêu cầu của tư duy mới, ủy quyền lập pháp mạnh mẽ, khối lượng công việc xây dựng pháp luật đặc biệt lớn, trước mắt là 54 luật, nghị quyết trình Quốc hội kỳ này (trong đó có hàng trăm nội dung giao các cơ quan quy định chi tiết, hướng dẫn); yêu cầu xử lý hơn 830 quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập đã được Chính phủ chỉ ra trong Báo cáo thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết.
Do đó, việc tăng cường năng lực xây dựng chính sách, pháp luật, nhất là của Chính phủ vẫn đang là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài và tiềm ẩn nhiều khó khăn.
Hình thành trường phái pháp luật Việt Nam hiện đại
Theo ĐB Đồng Ngọc Ba, Chính phủ và các cơ quan đã nhận diện, xác định nhiệm vụ, giải pháp tương đối đầy đủ về tăng cường năng lực xây dựng chính sách, pháp luật.
ĐB Đồng Ngọc Ba nhấn mạnh thêm 5 điểm.
Thứ nhất, cần khẩn trương có giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển, nâng tầm về chất của khoa học luật, gồm cả kinh tế học pháp luật, xã hội học pháp luật; kết nối hiệu quả lý luận pháp luật với xây dựng và thi hành pháp luật; bảo đảm lý luận pháp luật sinh ra từ thực tiễn và thực sự soi đường, dẫn dắt thực tiễn pháp luật.
“Có thể nói những lúng túng trong quy định về giá đất, về phân định phạm vi nội dung giữa luật và văn bản dưới luật; nhiều chính sách, quy định thiếu tầm nhìn dài hạn; sửa đổi, bổ sung có tính chất xử lý tình huống, bị động, ứng phó; hệ thống pháp luật có nguy cơ bị phân mảnh bất hợp lý… có một phần nguyên nhân từ cơ sở lý luận”-ĐB Ba phân tích.
Thời gian tới, cần chú trọng thiết lập, vận hành hiệu quả hệ sinh thái tri thức pháp luật, nòng cốt là viện nghiên cứu - trường đại học - cơ quan xây dựng chính sách, pháp luật - cơ quan áp dụng, thi hành pháp luật. Xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ học giả pháp lý xuất sắc, dẫn dắt tư duy pháp lý. Tăng cường nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, đặc biệt trong các lĩnh vực đất đai, doanh nghiệp, cạnh tranh, kinh tế số để hình thành các học thuyết pháp lý đặc thù của Việt Nam, dần hình thành trường phái pháp luật Việt Nam hiện đại.
Thứ hai, cần khẩn trương tăng cường tính chuyên nghiệp trong xây dựng pháp luật, trung tâm là các tổ chức pháp chế trong cơ quan Nhà nước và đội ngũ cán bộ pháp chế chuyên trách (hiện có hơn 1.900 người, trong đó ở trung ương khoảng 1.300 người, ở địa phương khoảng 600 người).
Cần có giải pháp căn cơ, lâu dài bảo đảm thu hút, bố trí người tài vào công tác pháp chế; thực hiện hiệu quả quy trình xây dựng pháp luật, nhất là những điểm mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm chất lượng chính sách và kỹ thuật pháp lý về quy phạm hóa chính sách.
Công tác rà soát, kiểm tra văn bản cần được tăng cường, đổi mới phương pháp, tiếp cận cả trước, trong, sau ban hành cũng như thực thi văn bản; chú trọng vào nội dung, tính hợp lý, khả thi, bám sát thực tiễn, góp phần tháo gỡ đồng thời ngăn ngừa điểm nghẽn về thể chế.
Thứ ba, thực tiễn cho thấy trong một số lĩnh vực, một số công việc cụ thể, nhất là về đầu tư, đất đai, và cả trong xây dựng chính sách, pháp luật… vẫn còn có trường hợp gặp khó, “đứt gãy” phối hợp liên ngành, liên cấp.
Vì vậy, Chính phủ cần có giải pháp mạnh mẽ, chỉ đạo quyết liệt, bảo đảm hiệu quả công tác phối hợp. Bộ máy phối hợp đồng bộ, không cát cứ là yêu cầu tối quan trọng của chính phủ quản trị hiện đại, đây cũng là thước đo năng lực điều hành quốc gia. Ở đâu còn cát cứ bộ ngành, ở đó chính phủ chưa thật sự là chính phủ kiến tạo.
Thứ tư, Tòa án nhân dân tối cao cần tăng cường hơn nữa việc phát triển án lệ, nhất là về kinh doanh, thương mại (đến nay chúng ta mới khoảng có hơn 70 án lệ, trong đó chưa đến 10 án lệ về kinh doanh, thương mại)…
Án lệ là nguồn pháp luật có nhiều ưu thế trong bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả thực thi pháp luật, phúc đáp kịp thời yêu cầu thực tiễn. Khi án lệ phát triển sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào văn bản dưới luật. Đây là xu thế chung của nhiều quốc gia phát triển có nền pháp quyền hiện đại.
Thứ năm, Quốc hội cần tập trung thỏa đáng cho giám sát văn bản quy phạm pháp luật. Khi chúng ta đẩy mạnh ủy quyền lập pháp, luật chỉ quy định nguyên tắc, quy định khung, thì giám sát văn bản quy phạm pháp luật càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Một nguyên tắc cơ bản của giám sát thực hiện ủy quyền là phải đến tận nơi quyền đó được thực hiện. Quốc hội không chỉ giám sát kết quả ban hành văn bản, mà phải giám sát cả vòng đời của văn bản đó trong đời sống xã hội. Nếu không làm tốt việc này, chúng ta có thể rơi vào tình trạng “buông quyền lập pháp”, tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế-xã hội.