(GLO)- Không một lá thư, không một dòng địa chỉ, họ yêu nhau trong biền biệt cách xa, để rồi sau 15 năm đợi chờ, tình yêu ấy nở hoa trong ngày đại thắng. Đó là chuyện tình thời chiến tranh của Đại úy Nguyễn Sơn-thuyền trưởng đầu tiên của đoàn tàu không số và nữ y sĩ Nguyễn Thị Phương ở đơn vị 555 khu căn cứ Minh Đạm, huyện Long Đất (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).
Đêm trước ngày vượt biển
Trong ngôi nhà cấp 4 do Lữ đoàn 125 xây tặng, ông Sơn mời chúng tôi ly nước trắng rồi bảo: “Chuyện tàu không số thì nhiều lắm. 15 năm chiến đấu ở đoàn tàu không số biết bao chuyện chiến đấu, tình yêu. Tai chú bị ù, các cháu nói to chú mới nghe được. Chú có 5 cái tên lận. Tên mẹ đẻ là Nguyễn Văn Phe, thời gian ở đơn vị 555 tên là Nguyễn Văn Chiến. Tên Chiến là lấy một trong 10 chữ trong lời thề quyết tâm của đơn vị 555 ngày ấy “Việt-Nam-hùng-dũng-chiến-đấu-thắng-lợi-vinh-quang”. Khi vượt biển bí mật ra Bắc tên là Nguyễn Văn Em. Nguyễn Sơn là tên do Phó Thủ tướng Phạm Hùng đặt trên tàu hỏa khi được Bộ Tổng Tham mưu đón từ đảo Hải Nam Trung Quốc về Hà Nội năm 1962, khi chuyển sang tàu 2 đáy tên là Nguyễn Văn Hòa”.
![]() |
Tấm huy chương "đoàn tàu không số" luôn được ông Sơn coi như báu vật. Ảnh: Mai Thắng |
Nhận được mệnh lệnh của đơn vị 555, ông cùng 5 chiến sĩ thuộc diện quân giải phóng miền Đông Nam bộ là Thôi Văn Nam, Trần Văn Phủ, Nguyễn Văn Thanh, Võ An Ninh, Lê Hà bí mật xuống thuyền vượt biển ra Bắc tiếp nhận vũ khí đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam.
Đêm trước ngày vượt biển, ông Nguyễn Sơn lúc đó tên Nguyễn Văn Chiến xin đơn vị về nhà gặp cô thôn nữ nói lời tạm biệt. Bến Lộc An lồng lộng mùa gió chướng. Dưới tán lá tràm bên Vàm Láng, họ ngồi bên nhau cho tim mình thao thức. Chẳng ai biết nói gì và bắt đầu từ đâu, dẫu trong lòng cồn cào như lửa đốt. Chiến bảo “Mai anh đi rồi chưa biết bao giờ trở lại. Chiến tranh ác liệt quá, anh phải đi”. Tựa đầu vào vai áo Chiến, Phương động viên “Chiến trường đang vẫy gọi, anh cứ đi, em đợi em chờ”. Sớm ngày 17-2-1962, Nguyễn Văn Chiến và 5 chiến sĩ bí mật xuống thuyền vượt biển ra Bắc. Hành trang đem theo là tình yêu Tổ quốc và lời thề son sắc hẹn gặp ngày đất nước thống nhất. Họ biền biệt xa nhau từ đó.
Để tiếp bước người yêu chiến đấu, Phương đã làm đơn tình nguyện tòng quân nhập ngũ vào đơn vị 555 và được má Mười Rìu nhận làm con nuôi rồi cho đi học y tá. Sau đó, Phương về công tác ở đơn vị 1.500, rồi đơn vị K-76A Quân khu 7 với nhiệm vụ cứu chữa thương binh vùng ngoại tuyến chờ ngày đất nước giải phóng hoàn toàn.
Tình yêu nở hoa sau 15 năm cách xa
Chuyến tàu mang bí số “56” của đoàn tàu không số chở vũ khí đạn dược bí mật vượt biển vào cảng Vũng Tàu ngày 29-4-1975 lúc 9 giờ sáng. Từ loa phát thanh, tiếng cô phát thanh viên dõng dạc “ Tỉnh lỵ Vũng Tàu Côn Đảo đã được giải phóng hoàn toàn”. Chiến sĩ Nguyễn Sơn ôm chầm lấy Thôi Văn Nam cùng đồng đội mà khóc. Trong đám đông những người có mặt ở cảng Vũng Tàu đón chiến sĩ đoàn tàu không số trở về sáng ấy, có cô chiến sĩ đội mũ tai bèo giải phóng, quàng khăn rằn, tay cầm bó hoa súng ngóng đợi.
“Anh Phe ơi” -Phương gọi to, cầm bó hoa súng giơ cao len chạy về phía Sơn đang dẫn đầu hàng quân. Giọt nước mắt vỡ òa sau 15 năm xa cách. Nhận bó hoa súng từ tay Phương, Sơn bảo “Bây giờ tên anh khác rồi, anh là Nguyễn Sơn”. “Chiến tranh kết thúc rồi đúng không anh, quê hương, các má các dì đang chờ đón anh về”. Ngày họ làm đám cưới, người dân làng chài Phước Hải từ ấp trên xuống hẻm dưới rộn ràng như ngày hội. Chú rể cô dâu trong quân phục giải phóng. Chen lẫn niềm vui ngày hạnh phúc, Sơn và đồng đội bùi ngùi tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh nằm lại trên biển.
Một tuần sau ngày cưới, ông Sơn tạm biệt vợ rồi tiếp tục đi chiến đấu bên chiến trường Campuchia. Từ năm 1976 đến 1991, ông trải qua nhiều chức vụ khác nhau và chiến đấu khắp chiến trường Campuchia, chiến trường biên giới Tây Nam. Năm 1992, ông được nghỉ chế độ hưu trí với cấp hàm đại úy. Căn nhà cấp 4 hiện ông và con gái thứ 2 đang ở là do Lữ đoàn 125 Hải quân xây tặng. Với vai trò là Bí thư chi bộ ấp, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Phước Hải, Phó Bí thư chi bộ khu phố, Tổ trưởng khu dân cư, ông Sơn không lúc nào ngơi việc. Ở đâu ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của người lính biển được Đảng và nhân dân giao phó, đơn vị tín nhiệm, đồng đội khâm phục mến yêu. Ông bảo “Nghỉ hưu nhưng không nghỉ việc. Còn sức còn đóng góp cho xã hội. Bây giờ nếu còn giặc, chú vẫn đi chiến đấu”.
Ông Nguyễn Sơn lật đi lật lại những tấm huy chương, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng như nhớ lại một thời hoa lửa. Ông bảo: “Những tấm huy chương này thấm đẫm máu của đồng đội. Với chú đó là kỷ vật, là xương cốt, là gia tài của chú. Dù cuộc sống đời thường bận bịu với con cháu, nhưng không vì thế mà lãng quên đồng đội. Với chú ký ức những năm tháng vượt trên đoàn tàu không số chẳng thể nào quên”.
Mai Thắng