Bất ngờ một bài thơ cổ trên vách núi Bài Thơ bị vùi sâu dưới đất

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Bài thơ của nhà thơ Nguyễn Cẩn là một trong 3 thi phẩm kiệt xuất trong chùm thơ 12 bài, hiện còn trên vách đá núi Bài Thơ, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh được bảo tồn theo luật Di sản. Gần đây, những người yêu thơ phát hiện bài thơ nổi tiếng này bị vùi sâu dưới đất khi xây dựng Đền bài thơ cổ núi Bài Thơ.

 Đền bài thơ cổ dưới chân núi Bài Thơ - nơi vẫn còn lưu lại 12 bài thơ khắc trên vách núi. Ảnh: Nguyễn Hùng
Đền bài thơ cổ dưới chân núi Bài Thơ - nơi vẫn còn lưu lại 12 bài thơ khắc trên vách núi. Ảnh: Nguyễn Hùng


Bài thơ của Nguyễn Cẩn được ông cho khắc lên vách núi Bài Thơ ngày mùng 3 tháng Chạp năm Canh Tuất - năm 1910.

Trước đây, bài thơ nằm hoàn toàn trên vách núi, thấp hơn so với các bài thơ của vua Lê Thánh Tông và chúa Trịnh Cương. Sau vài năm việc tôn tạo, xây dựng Khu di tích núi Bài Thơ hoàn thành, mới đây, người dân và những người yêu thơ phát hiện bài thơ này đã bị vùi sâu dưới đất do khu vực có bài thơ này được đổ đất tôn cao nền – khoảng 2m.

 

Khu vực này được đổ đất nâng nền lên ít nhất 2m, đã vùi lấp bài thơ khắc trên vách núi của Nguyễn Cẩn. Ảnh: Nguyễn Hùng
Khu vực này được đổ đất nâng nền lên ít nhất 2m, đã vùi lấp bài thơ khắc trên vách núi của Nguyễn Cẩn. Ảnh: Nguyễn Hùng


Phải mất rất nhiều thời gian tìm dọc vách núi đá, tôi mới tìm thấy vị trí của bài thơ. Sau khi dùng dao phạt bớt các cây lá mềm, cao khoảng 40 – 50 phân, và dùng bay gạt hết lớp đất một đoạn khá dài sát với vách đá, mới nhìn thấy đỉnh bia khắc bài thơ.

Thật không ngờ, một bài thơ nổi tiếng lại bị vùi lấp sâu dưới đất. Cũng xin nói thêm, hiện trên vách núi Bài Thơ có 12 bài thơ, nhưng chỉ có 3 bài  (của vua Lê Thánh Tông (năm 1468), chúa An Đô vương Trịnh Cương (1729) và Nguyễn Cẩn (1910) là có giá trị văn hóa và lịch sử, với tính chuyên nghiệp cao. 9 bài còn lại, đều là thơ của các ông bà quan, đi vãng cảnh, mà trình độ thơ chỉ ngang câu lạc bộ thơ cấp xã như bây giờ.

 

Nhà thơ Trần Nhuận Minh và bài thơ của Nguyễn Cẩn bị vùi sâu dưới lòng đất. Ảnh: Nguyễn Hùng
Nhà thơ Trần Nhuận Minh và bài thơ của Nguyễn Cẩn bị vùi sâu dưới lòng đất. Ảnh: Nguyễn Hùng


Nguyễn Cẩn có tên trong sách Lược truyện các tác gia Việt Nam do nhà thư mục học lớn là Trần Văn Giáp biên soạn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, ấn hành năm 1971. Ông người làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, nay là huyện Tiên Sơn,  tỉnh Bắc Ninh, có tên hiệu là Hương Khuê, tác giả nhiều bài thơ chữ Hán, được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc cuối thời Nguyễn, đầu thế kỉ XX. Ông làm quan Án sát triều Nguyễn, được vua Nguyễn bổ nhiệm làm Tuần phủ Quảng Yên, tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay.

 

 Trước đây bài thơ nằm trên vách núi, nhưng hiện đã nằm dưới lòng đất. Ảnh: Nguyễn Hùng
Trước đây bài thơ nằm trên vách núi, nhưng hiện đã nằm dưới lòng đất. Ảnh: Nguyễn Hùng


Bài thơ của Nguyễn Cẩn có 8 câu, 4 câu đầu toàn vần trắc, 4 câu sau toàn vần bằng, cấu trúc chặt chẽ, hơi thơ liền một mạch, bút pháp phóng khoáng, ngôn ngữ điêu luyện, rất hiện đại, đầy khí thế. Đặc biệt trong bài thơ, tác giả cũng bày tỏ sự phẫn nộ với chúa An Đô vương Trịnh Cương khi vị chúa này cho khắc bài thơ họa bài thơ của vua Lê Thánh Tông của mình trên vách núi nhưng ở vị trí cao hơn bài thơ của vua Lê Thánh Tông. Với ông, đây là điều không chấp nhận được.

Năm 1986, khi đi tìm bài thơ của vua Lê Thánh Tông, chúng tôi cũng luôn nghĩ bài thơ của ông sẽ phải ở trên bài thơ của chúa Trịnh Cương. Vì thế, căn cứ vào vị trí bài thơ của chúa Trịnh Cương, chúng tôi chỉ rà soát vách núi ở phía trên bài thơ này. Tuy nhiên, cuối cùng bài thơ của vua Lê Thánh Tông được tìm thấy ở phía dưới, trong một bức tường và trần xi măng đổ lên trên để làm chuồng lợn của một gia đình sơ tán ra đây, sau khi thị xã Hòn Gai bị ném bom cuối năm 1964.

 

Bài thơ của chúa Trịnh Cương được khắc lên vách núi năm 1729. Ảnh: Nguyễn Hùng
Bài thơ của chúa Trịnh Cương được khắc lên vách núi năm 1729. Ảnh: Nguyễn Hùng


Ngay sau khi phát hiện ra bài thơ của Nguyễn Cẩn bị vùi sâu dưới 2m đất, tôi đã có gọi điện của đại diện UBND tỉnh Quảng Ninh, Sở Văn hóa – Thể thao tỉnh và nhận được câu trả lời, sẽ cho khảo sát lại ngay và thực hiện sớm nhất việc đào đất đi, phục hồi nguyên trạng bài thơ như nó đã có từ 111 năm nay.

Xin giới thiệu bài thơ được Nguyễn Cẩn đề trên vách đá, ngày mùng 3 tháng Chạp năm Canh Tuất (1910).

Bài thơ chữ Hán nguyên văn như sau:

Thánh Tôn hoàng đế đề thi thạch,

Đông minh chi sơn cao bách xích.

Thiên phong, hải đảo nhật dạ kích,

Ngũ bách niên dư, tự do xích

Họa xưng ngự bút ế hà nhân?

Trịnh Vương vọng ý đồng bất dân.

Ngã lai bạt kiếm, nộ thả sân,

Hu ta hậu Lê chi quân thần!

Canh Tuất, lạp nguyệt, sơ tam nhật, Nguyễn Cẩn

Dịch thơ:

Hoàng đế Thánh Tông đề thơ lên đá

Núi ở bể Đông cao hàng trăm thước

Gió trời, sóng biển ngày đêm vỗ vào

Thế mà hơn 500 năm rồi, chữ còn chưa mất

Họa lại, dám xưng là ngự bút; hừ, ai đấy nhỉ?

Ý xấu của Trịnh Vương là muốn cùng trường tồn

Ta đến, rút kiếm phẫn nộ và căm tức

Than thay cho vua tôi nhà hậu Lê !

Nguyễn Cẩn đề, ngày mùng 3 tháng Chạp năm Canh Tuất, 1910.

Nhà thơ Trần Nhuận Minh
(Dẫn nguồn NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Thơ Nguyễn Ngọc Phú: Tấm áo Điện Biên

Thơ Nguyễn Ngọc Phú: Tấm áo Điện Biên

(GLO)- Tấm áo trấn thủ đã trở thành biểu tượng gắn liền với người chiến sĩ Điện Biên trong suốt 56 ngày, đêm "đánh lấn từng thước đất". Ngắm nhìn tấm áo ấy được trưng bày trong bảo tàng, tác giả Nguyễn Ngọc Phú bồi hồi, tưởng như được sống lại phút giây chiến đấu hào hùng của cha anh.
Thơ Hà Hoài Phương: Tự khúc

Thơ Hà Hoài Phương: Tự khúc

(GLO)- "Tự khúc" của tác giả Hà Hoài Phương là những chiêm nghiệm rất thực về cuộc đời. Sau cơn mưa trời lại sáng, không có điều gì tồn tại mãi, dù đó có là những niềm vui, hạnh phúc hay khổ đau...
Xếp sách nghệ thuật

Xếp sách nghệ thuật

(GLO)- Như một kiến trúc sư với nguyên vật liệu là sách, các nhân viên Thư viện tỉnh Gia Lai đã dày công sáng tạo và mô phỏng thành công nhiều công trình văn hóa-lịch sử đẹp mắt nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền về văn hóa đọc.
Thơ Ngô Thanh Vân: Vào hội

Thơ Ngô Thanh Vân: Vào hội

(GLO)- Đất trời Tây Nguyên trong bung biêng thanh âm cồng chiêng, men cay rượu cần nồng nàn, vấn vít, nhịp xoang quyến luyến, tay nắm tay chẳng rời... được nhà thơ Ngô Thanh Vân một lần nữa nhắc đến trong bài thơ "Vào hội".

Thơ Phạm Đức Long: Mây trắng trời quê

Thơ Phạm Đức Long: Mây trắng trời quê

(GLO)- Biết bao nhiêu người đã ngã xuống, đổi máu xương cho đất nước, quê hương thanh bình. Thương xót và biết ơn, những dòng thơ của nhà thơ Phạm Đức Long cũng trở nên da diết: "Xin người hóa núi hóa sông/Ngàn năm mây trắng phiêu bồng bóng quê!"...

Ông Siu Phơ (bìa phải) thực hiện nghi lễ cúng với sự hỗ trợ của ông Rah Lan Hieo. Ảnh: Vũ Chi

Phú Thiện: Khai mạc lễ hội cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Sáng 30-4, tại Khu Di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia Plei Ơi (xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai), UBND huyện Phú Thiện khai mạc lễ hội cầu mưa Yang Pơ tao Apui và Hội thi văn hóa thể thao các dân tộc thiểu số lần thứ XV năm 2024.
Thơ Lữ Hồng: Cho người ở lại

Thơ Lữ Hồng: Cho người ở lại

(GLO)- Chúng ta đều yêu Pleiku nhưng không phải ai cũng chọn ở lại và gắn bó. Một lúc nào đó, vào chặng cuối cuộc đời, người Pleiku tha hương mới dâng đầy nỗi nhớ. Bài thơ của Lữ Hồng ngỡ là lời của một người ra đi gửi cho người ở lại, mà cũng có thể là lời của người ở lại gửi cho chính mình...