Trong số hộ nghèo theo tiêu chí mới (giai đoạn 2011-2015) còn cho đến thời điểm hiện nay của cả tỉnh thì trong đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ rất cao: 62.867 hộ/79.417 hộ (79,16%). 4 huyện có số hộ nghèo trên 50% là Kông Chro, Krông Pa, Kbang và Ia Pa. Xét về mặt trình độ dân trí, địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội ở các địa phương này cho ta vấn đề cần suy nghĩ trong chiến lược giảm nghèo, nhất là những năm đầu của thập kỷ thứ hai, thế kỷ XXI này...
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số định cư chủ yếu là vùng xa, vùng sâu, không thuận lợi về nhiều mặt, đặc biệt là giao thông, trình độ học vấn còn thấp, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác cây trồng, vật nuôi còn hạn chế, khó có điều kiện tiếp cận thị trường… Hạ tầng sản xuất và xã hội ở những vùng này còn đang bất cập. Mục tiêu của Gia Lai đề ra là phấn đấu mỗi năm bình quân giảm nghèo từ 3% đến 4% số hộ; riêng các huyện có số hộ nghèo trên 50% phải giảm được ít nhất là 5% hộ/năm. Thực hiện được mục tiêu này không hề dễ, nếu không có những chính sách đúng và cách làm cụ thể và phải chính là “người trong cuộc” thật sự vào cuộc, coi chuyện giảm nghèo làm giàu là của chính bản thân mình, gia đình mình.
Nhà nước đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng một cách ưu tiên cho vùng khó khăn là việc làm cần thiết, nhưng không phải chỉ có thế là đủ, mà còn phải tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục bền bỉ, lâu dài, làm cho bà con nhận thức được về tư tưởng, đồng thời nhất định phải chống thói quen trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, dựa vào những chính sách ưu tiên đối với vùng dân tộc thiểu số. Đặc biệt triệt để xóa bỏ những tập tục lạc hậu trong đời sống và sản xuất, trong tư duy “tự bằng lòng”, yên phận, vốn đã tồn tại trong một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số định cư chủ yếu là vùng xa, vùng sâu, không thuận lợi về nhiều mặt, đặc biệt là giao thông, trình độ học vấn còn thấp, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác cây trồng, vật nuôi còn hạn chế, khó có điều kiện tiếp cận thị trường… Hạ tầng sản xuất và xã hội ở những vùng này còn đang bất cập. Mục tiêu của Gia Lai đề ra là phấn đấu mỗi năm bình quân giảm nghèo từ 3% đến 4% số hộ; riêng các huyện có số hộ nghèo trên 50% phải giảm được ít nhất là 5% hộ/năm. Thực hiện được mục tiêu này không hề dễ, nếu không có những chính sách đúng và cách làm cụ thể và phải chính là “người trong cuộc” thật sự vào cuộc, coi chuyện giảm nghèo làm giàu là của chính bản thân mình, gia đình mình.
Một ví dụ, khi mùa màng bội thu thì tiêu xài vô tội vạ, không biết tính toán, dành dụm phòng khi mưa không thuận gió không hòa. Nhiều vùng ở Krông Pa, mới đây được mùa mì, giá lại cao, bán được tiền thì dùng vào việc mua sắm những thứ xa xỉ, còn xa lạ với đồng bào như xe máy đắt tiền, ti vi, đầu đĩa, điện thoại di động, tủ lạnh, salon… để rồi vứt đi chỉ một thời gian ngắn sử dụng, thật là lãng phí. Những nơi bà con được đền bù một khoản tiền không nhỏ khi di dời ở các công trình xây dựng của Nhà nước cũng có trường hợp tương tự-thủy điện An Khê-Ka Nak (huyện Kbang), thủy lợi Ia Mơr (huyện Chư Prông) là những đơn cử. Nếu bản thân biết tính toán, có người hướng dẫn, những khoản tiền lớn ấy sẽ vô cùng có ích cho bà con trong việc đầu tư tái sản xuất và hiệu quả nhất định sẽ cao, cơ hội thoát nghèo là điều có thể. Chưa nói đến việc còn có tình trạng bà con bán đất, bán ruộng để tiêu xài vào những mục đích vô bổ, để rồi lại thiếu đất, lại lùi sâu vào rừng đốt rừng làm rẫy, vi phạm pháp luật…
Vấn đề nữa, việc chọn giải pháp để hỗ trợ bà con trong sản xuất, cần lắm việc thấu hiểu về phong tục, tập quán, trình độ canh tác, cây trồng, vật nuôi. Không ít các chủ trương hết sức vô lý và rập khuôn, “chuyển đổi cây trồng, vật nuôi”- khẩu hiệu này không phải đúng cho mọi trường hợp, mọi nơi, nó chưa phải là chiếc gậy thần vạn năng. Hiện những loại cây trồng “bình dân” như mì, bắp (không phải lai), chuối, ớt, rau, củ quả… được coi là “sạch” chẳng phải xuất xứ từ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đấy sao? Có cần thiết đưa cây giống lai vào thay thế cho những loại cây trồng truyền thống này chưa, trong khi thị trường nội địa không có chỗ đứng bền vững, xuất khẩu lại bấp bênh, đối tác không ổn định; vả lại với trình độ canh tác của bà con vùng dân tộc thiểu số chưa thể tiếp thu cái mới này được. Đã có những bài học thất bại về đầu tư, chuyển đổi cây trồng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thay vì hướng dẫn cho bà con biết thâm canh những cây trồng “của họ” lại bỏ tiền ra để nhập khẩu những giống cây còn chưa được thực nghiệm giao cho bà con làm, kết cục “tiền mất tật mang”.
Lĩnh vực chăn nuôi cũng tương tự, những con vật đã quá quen thuộc, gần gũi muôn đời với đời sống cộng đồng của bà con, hiện cũng đã là đặc sản trên thị trường thực phẩm, giá trị cũng không nhỏ, những loại vật nuôi ấy (gà, heo, bò, dê, trâu…) gần như cũng đã thích nghi môi trường sống, khả năng chống chịu dịch bệnh khá cao. Đã cần thiết chưa khi mà ta ra sức vận động bà con bỏ đi những loại vật nuôi truyền thống này để chạy theo “chuyển đổi”? Câu hỏi của các nhà “chuyển đổi…” về năng suất có thể quá dễ dàng khi trả lời rằng, thời nay đã đến lúc thị trường người ta nhìn vào chất lượng và giá trị của cái mà nhiều người ưa dùng, sành dùng.
Nói như trên không có nghĩa việc vận động chuyển đổi cây trồng-vật nuôi, đầu tư, khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ bị lãng quên, mà phải tùy từng địa phương, từng cộng đồng, từng khả năng tiếp nhận cái mới của bà con mà có hướng chỉ đạo, vận động cụ thể trong việc giảm nghèo, tránh chạy theo thành tích ghi từ phía suất đầu tư, mà không tính đến kết quả “đầu tư” cụ thể trong từng hộ, từng nhà… Những chính sách cho vay hộ nghèo cũng cần xem lại, hiện đâu đó vẫn có tình trạng bà con vay tiền cất kỹ vào ống tre để đến hạn đem trả lại cho ngân hàng. Tiền cho vay muốn đạt hiệu quả, thiết nghĩ người cho vay phải là người đồng hành cùng người vay trong việc sử dụng nó, chỉ cho người vay cần làm gì với những đồng tiền được vay, tránh việc kiểm tra qua… dự án, theo… dự án.
Mạo muội nêu vài nội dung cụ thể xem có ích gì cho việc vận động bà con đồng bào dân tộc thiểu số-đối tượng chủ yếu đang hướng đến của mục tiêu giảm nghèo, sớm thoát nghèo, tự vươn lên làm giàu trong tương lai… Cùng với đó, không thể thiếu một bản-quy-hoạch, khảo sát điều tra tỉ mỉ để rồi có chủ trương phù hợp, đầu tư đúng chỗ, đúng lúc, đúng đối tượng và có hiệu quả. Mục tiêu giảm nghèo nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trong giai đoạn tới sẽ không đạt, không bền vững, nếu không tìm một cách làm đúng, phù hợp mặt bằng dân trí và tôn trọng thực tế, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của từng vùng, từng dân tộc… trong đời sống xã hội nói chung và trong sản xuất nông- lâm nghiệp nói riêng!
Vấn đề nữa, việc chọn giải pháp để hỗ trợ bà con trong sản xuất, cần lắm việc thấu hiểu về phong tục, tập quán, trình độ canh tác, cây trồng, vật nuôi. Không ít các chủ trương hết sức vô lý và rập khuôn, “chuyển đổi cây trồng, vật nuôi”- khẩu hiệu này không phải đúng cho mọi trường hợp, mọi nơi, nó chưa phải là chiếc gậy thần vạn năng. Hiện những loại cây trồng “bình dân” như mì, bắp (không phải lai), chuối, ớt, rau, củ quả… được coi là “sạch” chẳng phải xuất xứ từ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đấy sao? Có cần thiết đưa cây giống lai vào thay thế cho những loại cây trồng truyền thống này chưa, trong khi thị trường nội địa không có chỗ đứng bền vững, xuất khẩu lại bấp bênh, đối tác không ổn định; vả lại với trình độ canh tác của bà con vùng dân tộc thiểu số chưa thể tiếp thu cái mới này được. Đã có những bài học thất bại về đầu tư, chuyển đổi cây trồng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thay vì hướng dẫn cho bà con biết thâm canh những cây trồng “của họ” lại bỏ tiền ra để nhập khẩu những giống cây còn chưa được thực nghiệm giao cho bà con làm, kết cục “tiền mất tật mang”.
Lĩnh vực chăn nuôi cũng tương tự, những con vật đã quá quen thuộc, gần gũi muôn đời với đời sống cộng đồng của bà con, hiện cũng đã là đặc sản trên thị trường thực phẩm, giá trị cũng không nhỏ, những loại vật nuôi ấy (gà, heo, bò, dê, trâu…) gần như cũng đã thích nghi môi trường sống, khả năng chống chịu dịch bệnh khá cao. Đã cần thiết chưa khi mà ta ra sức vận động bà con bỏ đi những loại vật nuôi truyền thống này để chạy theo “chuyển đổi”? Câu hỏi của các nhà “chuyển đổi…” về năng suất có thể quá dễ dàng khi trả lời rằng, thời nay đã đến lúc thị trường người ta nhìn vào chất lượng và giá trị của cái mà nhiều người ưa dùng, sành dùng.
Nói như trên không có nghĩa việc vận động chuyển đổi cây trồng-vật nuôi, đầu tư, khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ bị lãng quên, mà phải tùy từng địa phương, từng cộng đồng, từng khả năng tiếp nhận cái mới của bà con mà có hướng chỉ đạo, vận động cụ thể trong việc giảm nghèo, tránh chạy theo thành tích ghi từ phía suất đầu tư, mà không tính đến kết quả “đầu tư” cụ thể trong từng hộ, từng nhà… Những chính sách cho vay hộ nghèo cũng cần xem lại, hiện đâu đó vẫn có tình trạng bà con vay tiền cất kỹ vào ống tre để đến hạn đem trả lại cho ngân hàng. Tiền cho vay muốn đạt hiệu quả, thiết nghĩ người cho vay phải là người đồng hành cùng người vay trong việc sử dụng nó, chỉ cho người vay cần làm gì với những đồng tiền được vay, tránh việc kiểm tra qua… dự án, theo… dự án.
Mạo muội nêu vài nội dung cụ thể xem có ích gì cho việc vận động bà con đồng bào dân tộc thiểu số-đối tượng chủ yếu đang hướng đến của mục tiêu giảm nghèo, sớm thoát nghèo, tự vươn lên làm giàu trong tương lai… Cùng với đó, không thể thiếu một bản-quy-hoạch, khảo sát điều tra tỉ mỉ để rồi có chủ trương phù hợp, đầu tư đúng chỗ, đúng lúc, đúng đối tượng và có hiệu quả. Mục tiêu giảm nghèo nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trong giai đoạn tới sẽ không đạt, không bền vững, nếu không tìm một cách làm đúng, phù hợp mặt bằng dân trí và tôn trọng thực tế, tôn trọng và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của từng vùng, từng dân tộc… trong đời sống xã hội nói chung và trong sản xuất nông- lâm nghiệp nói riêng!
Bích Hà