Lễ tang cho voi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Con voi là tài sản lớn của đồng bào Tây Nguyên, mỗi con đều có tên tuổi và được coi như thành viên của gia đình, buôn làng. Chúng được chăm sóc, đối xử tử tế theo quy định của phong tục, luật tục.
Đối với người M’Nông, khi con voi nhà bị chết, họ cũng tiến hành nghi lễ ma chay giống như với con người. Đồng bào quan niệm, cái chết của voi như một người vừa từ giã thế giới này để về sống ở thế giới bên kia. Khi voi nhà chết, người nhà chỉ báo tin bằng miệng cho gia đình, họ hàng. Người trong làng có biết thì tự nguyện đến chia buồn và giúp đỡ. Các nhà có voi đều gạt bỏ hết công việc đến sẻ chia với gia chủ.
Trước kia đất đai rộng lớn, người ở thưa thớt, voi lại có thân hình to lớn nên voi chết ở đâu là người ta chôn ngay ở đó. Để làm tang lễ cho voi, chủ voi phải làm 2 lễ cúng nhỏ trước: Một là lễ tạ nài voi, hai là cho chủ voi. Nếu người chủ cũng chính là nài voi thì người ta chỉ làm 1 lễ cúng mà thôi, lễ vật rất đơn giản: 1 con gà, rượu và 1 chén gạo, 1 cây nến sáp ong.
Lễ cúng này được diễn ra ngay sau khi voi chết, bên cạnh con voi. Nếu voi nhà chết là voi đực thì khi chôn voi người ta buộc 2 sợi thừng vào 2 bên ngà, chừa 2 cái lỗ hổng theo hướng ngà đi lên, để sau thịt voi phân hủy, họ làm lễ xin thần Ngăch Ngual cặp ngà và rút sợi dây buộc ngà lên một cách nhẹ nhàng.
Với quan niệm voi đã chết rồi, song linh hồn còn ở lại với gia chủ 3 ngày, nên khi voi chết, việc đầu tiên là người ta dùng một tấm vải trắng dài khoảng 3-4 m đắp lên con voi, người nhà gia chủ đều ngủ và ăn tại đó để giữ gìn linh hồn voi ở lại. Sau 3 ngày mới tiến hành nghi thức chôn cất, cúng tế.
Trong 3 ngày đó họ chỉ ngồi hát khóc, chủ nhà thì lấy rượu hòa với tiết gà bôi lên trán người đến thăm để tránh điều rủi ro. Khi tin chắc voi đã chết hẳn, người ta mới bắt đầu tiến hành đào hố xung quanh con voi để chôn cất.
Khi chết, voi Yă Tao được người dân chở về chôn cất  bên dòng sông Ia Tul (huyện Ia Pa). Ảnh: Vũ Chi
Khi chết, voi Yă Tao được người dân chở về chôn cất bên dòng sông Ia Tul (huyện Ia Pa). Ảnh: Vũ Chi
Chính vì coi voi như một thành viên trong gia đình nên trước khi chôn voi người ta cũng phân chia tài sản đồ vật trong nhà ra, phần của voi được người ta bỏ xuống hố chôn chung cùng với những đồ vật sử dụng liên quan trực tiếp đến con voi như dây buộc voi, dùi móc (kreo)… Nhưng ngày nay, phong tục này cũng đã mất đi, nếu có chôn họ cũng chỉ chôn các công cụ trong quá trình sử dụng voi (đệm cổ voi bằng vỏ cây lộc vừng, gậy, dây thừng buộc voi, thòng lọng bắt voi…).
Đồ lễ bao gồm gà, heo, cơm, rượu và nến sáp ong. Rượu thì phụ thuộc vào nhà giàu hay nghèo mà cúng 1 hay 3 ché. Chủ nhà lấy gạo ném trúng vào ngọn nến, vào cây buộc ché 3 lần cầu mong cho linh hồn voi vui vẻ siêu sinh không gây bệnh cho các con voi khác trong buôn.
Sau đó, người dân làm lễ bỏ mả cho voi. Với quan niệm sau 30 ngày, linh hồn voi sẽ rời khỏi nhà về lại rừng, đồng thời để cầu khẩn linh hồn voi về lại rừng vui vẻ, vẫn còn nhớ đến mình, nhập linh hồn vào con voi khác để khi thấy chủ đi săn thì ngoan ngoãn cho chủ bắt. Chính vì mong ước đó mà người chủ voi bao giờ cũng làm lễ hiến sinh cho voi khi đã chôn cất được 30 ngày.
Lễ bỏ mả thường được cử hành tại đầu làng, chỉ dành cho những người trong gia tộc tham dự. Muốn có một lễ bỏ mả hoàn chỉnh, họ phải làm hình voi giả bằng gỗ cùng với các công cụ sử dụng của nài voi. Thầy cúng đọc lời khấn, cầu cho linh hồn voi vui vẻ quay lại rừng, cầu cho thần Ngăch Ngual nhận lại linh hồn con voi này, cầu cho voi khi chết đi vẫn nhớ về chủ cũ mà quay lại bằng một con voi khác, để người chủ đi săn bắt được dễ dàng. Sau lễ bỏ mả, họ không còn vướng bận gì với con voi đã chết.
Khi voi nhà bị chết, chủ nhà phải làm lễ tang rất trịnh trọng với tất cả sự thành kính. Lễ tang cho voi như một lời thỉnh cầu tới các thần linh cũng như linh hồn con voi hãy quay lại tìm nơi trú ngụ ở một con voi khác và cho họ bắt được nhiều voi trong quá trình đi săn sau này. Ngày nay, đồng bào M’Nông không còn duy trì nghề săn voi rừng nữa, khi voi nhà chết, dân làng làm lễ tang để tỏ lòng tiếc thương, như trường hợp voi Yă Tao ở xã Chư Mố (huyện Ia Pa) mới đây.
TẤN VỊNH

Có thể bạn quan tâm

Một thời sưu tầm văn nghệ dân gian

Một thời sưu tầm văn nghệ dân gian

(GLO)- Tôi sinh hoạt cùng anh chị em văn nghệ sĩ ở Gia Lai-Kon Tum từ những năm cuối thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Khi ấy, phong trào nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian (Folklore) đang rộ lên. Tôi tự cảm thấy đây là lĩnh vực cũng cần tìm hiểu và có trách nhiệm với nơi mình đang sống.
Lễ cúng rụng rốn của người Bahnar

Lễ cúng rụng rốn của người Bahnar

(GLO)- Lễ cúng rụng rốn (Et tuh klok) là nghi lễ đầu tiên trong vòng đời của mỗi người Bahnar. Không chỉ là cúng tạ ơn, mong muốn các thần linh che chở, bảo vệ đứa trẻ khỏe mạnh, mà lễ cúng còn là sự xác nhận đứa bé chính thức trở thành thành viên trong gia đình, dòng tộc và cộng đồng.
Ché quý của người Jrai

Ché quý của người Jrai

(GLO)- Người Jrai ở Krông Pa (tỉnh Gia Lai) còn lưu giữ nhiều loại ché (ghè) rất giá trị. Bước vào một ngôi nhà dài, quan sát vị trí, số lượng các loại ché, chúng ta có thể đánh giá mức độ giàu có của chủ nhân.
Người dành trọn tình yêu với văn hóa Jrai

Người dành trọn tình yêu với văn hóa Jrai

(GLO)- Bằng tình yêu và niềm tự hào về nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình, ông Ak (80 tuổi, làng Chuét 2, phường Thắng Lợi, TP. Pleiku) đã dành trọn cuộc đời để bảo tồn văn hóa cồng chiêng, đan lát và chế tác nhạc cụ dân tộc với mong muốn lưu giữ cho thế hệ mai sau.
Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

(GLO)- Với người Jrai, hát dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, những người biết hát dân ca luôn quan tâm tới việc bảo tồn, lưu giữ và khơi gợi niềm đam mê cho thế hệ trẻ để góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình.