Đây cũng là vùng căn cứ địa của chúa Nguyễn Phúc Ánh thời bôn tẩu với dấu ấn hiện vẫn còn ở các địa danh và câu chuyện lưu truyền trong dân gian. Trên đường 30.4, P.Bạc Liêu, tỉnh Cà Mau, có một đồng hồ được xem là độc lạ nhất VN, mang tên đồng hồ Thái Dương. Đây là công trình độc đáo có một không hai của kỹ sư Lưu Văn Lang mà dân gian gọi là nhà bác vật Lang.
Đồng hồ xây bằng gạch
Đồng hồ Thái Dương (còn gọi là đồng hồ đá) được xây bằng gạch thẻ, mặt ốp bằng gạch tàu. Trên mặt đồng hồ có 3 phần: chính giữa là một gờ cao khối hình chữ nhật nhô ra phía trước; hai phần còn lại là khối hình vuông cân đối hai bên, chia vạch, đánh số La Mã từ I - XII để chỉ giờ. Đồng hồ Thái Dương xem giờ bằng ánh nắng mặt trời. Khi ánh sáng chiếu vào gờ cao sẽ chia mặt đồng hồ thành hai mảng sáng - tối và lằn ranh giới giữa hai mảng sáng tối đó chính là kim chỉ giờ của đồng hồ.
Theo bảng giới thiệu công năng của đồng hồ đặt tại khu di tích, ngày xưa, đồng hồ Thái Dương có độ chính xác khá cao, chỉ sai lệch so với đồng hồ thông thường chừng 5 - 7 phút. Tuy nhiên, trải qua hơn một thế kỷ, hiện nay, mặt trước đồng hồ đã bị bong tróc, các vạch số La Mã bị mờ, rất khó nhìn thấy.
Đồng hồ Thái Dương được kỹ sư Lưu Văn Lang dựng nên khoảng năm 1913, trong khu đất rộng đối diện với dinh Tỉnh trưởng Bạc Liêu thời Pháp thuộc. Hồi đầu thế kỷ 20, đồng hồ là vật dụng còn rất hiếm. Tương truyền, khi xưa, các viên chức làm việc trong dinh tỉnh trưởng thường ghé lại đây xem giờ hoặc chỉnh lại đồng hồ của mình.
Kỹ sư Lưu Văn Lang sinh năm 1880 trong một gia đình lao động nghèo. Cha ông là thợ đục đá, chuyên làm cối xay bột tại chợ Sa Đéc (Đồng Tháp). Thừa hưởng tính thông minh, cần cù và chăm chỉ từ người cha, năm 6 tuổi, Lưu Văn Lang được đi học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp ở Trường tiểu học Sa Đéc. Nhà nghèo nhưng học giỏi, được Chánh tham biện người Pháp yêu mến, được quan chức địa phương giới thiệu nên ông được ưu ái cấp học bổng tại Trường Chasseloup Laubat Sài Gòn (này là Trường THPT Lê Quý Đôn). Năm 17 tuổi, ông giành học bổng đi du học tại Trường Igénieur des Arts Manufactures l'Ecole Centrale le Paris - là trường đào tạo kỹ sư danh tiếng của nước Pháp thời bấy giờ.
Sau khi tốt nghiệp ở Paris, với bằng kỹ sư xây dựng cầu đường, Lưu Văn Lang được cử sang Vân Nam (Trung Quốc) tham gia xây dựng đường xe lửa với vai trò kỹ sư thực tập. Năm 1909, ông về VN làm việc tại Sở Công chánh Sài Gòn, đến năm 1940 thì hưu trí.
Nhà bác vật tiên tri
Nhà bác vật Lưu Văn Lang thông minh xuất sắc, thuộc vào những kỹ sư cầu đường đầu tiên của nước ta. Người dân Nam bộ, đặc biệt người bình dân, xem ông như vị thánh sống, có tài tiên tri, biết chuyện quá khứ vị lai…
Khoảng năm 1920, ông nói với bà con ở Sa Đéc là sau này bến tàu lục tỉnh tại mũi Cần Gió sẽ bị lở sâu vào 1 - 2 cây số. Mấy mươi năm sau, vị trí này bị sụp lở đúng như lời "tiên tri" của ông. Người ta còn kể một lần ông về Bạc Liêu xem cầu Long Thạnh (nay thuộc xã Hòa Bình, Cà Mau) do kỹ sư người Pháp thiết kế, xây dựng. Khi công trình sắp xong, ông lấy gậy gõ vào thành cầu rồi nói với kỹ sư người Pháp: "Không bao lâu nữa cầu này sẽ sập". Tay kỹ sư Pháp rất tức giận, nhưng gần 2 tháng sau thì cầu sập. Tỉnh trưởng Bạc Liêu rất khâm phục, đối đãi ông hậu hĩ. Để đáp lại thịnh tình đó, ông đã chế tác đồng hồ đá tặng viên tỉnh trưởng.
Chuyện kể rằng, mỗi khi nghiệm thu những cây cầu mới xây, ông buộc nhà thầu phải tuân thủ nghiêm ngặt các yếu tố kỹ thuật như đào bỏ lớp đất sét, thay thế bằng đất cát ở các mố cầu và cảnh báo sự sụt lún khiến những kỹ sư người Pháp phải nể sợ. Những chuyến khảo sát của bác vật Lang thường gây ấn tượng trong dân chúng, như khi ông vào vùng Thất Sơn thì người ta gọi là đi "khám địa huyệt". Tên ông cũng được đặt cho một hang động kỳ bí ở núi Cấm, gọi là hang Bác vật Lang...
Báo Phụ Nữ Tân Văn (số 66 - 1930) mô tả ông người tầm thước, vẻ mặt vui tươi, dáng phong nhã, cặp mắt sáng như gương. Ông nói chuyện bằng tiếng Pháp bằng giọng dịu dàng êm ái. Ông nhiều con, nhưng nhà cửa thanh bạch. Năm 1930, chính phủ Pháp thưởng huy chương bạc cho vợ ông, nhằm vinh danh người phụ nữ sinh 9 đứa con, nuôi dưỡng và giáo dục nên người.
Trả lời phỏng vấn trên báo Phụ Nữ Tân Văn, kỹ sư Lưu Văn Lang nói muốn đất nước tiến bộ thì phải mở mang kỹ nghệ trong nước, bớt phụ thuộc hàng hóa nước ngoài: "Hãy xem các đồ vật trong nhà, trong người mình thì thấy phần nhiều là của Tây hay của Tàu, ít thấy cái của mình làm ra". Ông nhấn mạnh "sự học chuyên môn về kỹ nghệ là vấn đề rất cần cho nước nhà. Ta đã chậm hơn người thì nay phải cố bước lên cho bằng, chớ đã chậm mà không chịu đi thì làm sao mở mặt đua tranh với người được".
Đối với du học sinh, nhà bác vật khuyên chớ nên lấy cái văn bằng tốt nghiệp làm mục đích của mình và làm cái giới hạn của sự học. Người nào vì gia cảnh bần hàn phải dùng cái văn bằng làm cách sinh nhai thì không kể làm chi, còn người có điều kiện thì nên chịu khó ra sức nghiên cứu, dù tốn công tốn của cũng nên gắng mà học cho tới nơi tới chốn, chứ đừng vội lãnh được văn bằng là về nước ngay. Nhứt là học sinh chuyên môn về khoa học kỹ nghệ, cơ khí thì cần phải có tập sự trong các xưởng thợ, các nhà máy sau này mới có thể đem cái tài học của mình mà thực hành được. Ông cho rằng nếu chỉ có bằng cấp mà không có tài thực hành thì cũng chỉ hô hào cổ động chứ chẳng ai tin.
Hoàng Phương - Ngọc Phan