Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông: 45 năm xây dựng, đổi mới và phát triển

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Lời Tòa soạn: Trong suốt chặng đường 45 năm hình thành và phát triển, Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông luôn nỗ lực vượt khó, song hành cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, khẳng định vai trò trong nền kinh tế thị trường. Nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, P.V Báo Gia Lai điện tử có cuộc phỏng vấn ông Võ Toàn Thắng-Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Công ty về những thành tựu mà đơn vị đã đạt được.
* P.V: Ông có thể khái quát về quá trình hình thành của đơn vị?   
Ông Võ Toàn Thắng. Ảnh: Vũ Thảo
Ông Võ Toàn Thắng. Ảnh: Vũ Thảo
- Ông Võ Toàn Thắng: Sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, tỉnh Hà Nam Ninh và tỉnh Gia Lai-Kon Tum phối hợp thực hiện chương trình xây dựng vùng kinh tế mới tại Gia Lai-Kon Tum. Ngày 22-11-1976, UBND tỉnh Gia Lai-Kon Tum ra quyết định thành lập Nông trường Quốc doanh Chư Prông từ khu kinh tế mới Hà Nam Ninh tại huyện Chư Prông. Đến ngày 3-2-1977, Nông trường Cao su Chư Prông chính thức được thành lập với nhiệm vụ chính: trồng cao su, hình thành vùng kinh tế kết hợp với bảo vệ quốc phòng-an ninh vùng biên giới.
Ngày 13-1-1978, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai-Kon Tum ký quyết định về việc bàn giao Nông trường Quốc doanh Chư Prông từ Ban Kinh tế mới B Hà Nam Ninh về Ty Nông nghiệp tỉnh Gia Lai-Kon Tum quản lý, Nông trường chính thức thuộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum chỉ đạo. Ủy ban nhân dân tỉnh đã lập quy hoạch phát triển Nông trường với quy mô 39.500 ha đất tự nhiên, trồng định hình 17.300 ha cao su.
Đến ngày 2-4-1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định chuyển giao Công ty Cao su Chư Prông về Tổng cục Cao su Việt Nam quản lý (nay là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam). Ngày 24-12-2009, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam ban hành quyết định chuyển đổi Công ty Cao su Chư Prông thành Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông.
Sau 45 năm hình thành và phát triển với nhiều lần đổi tên, Công ty Cao su Chư Prông đã từng bước biến những vùng đất hoang hóa thành trù phú, tạo việc làm và đem lại cuộc sống no ấm cho gần 3.000 lao động, trong đó có trên 60% người dân tộc thiểu số địa phương, góp phần ổn định kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng-an ninh trên địa bàn huyện biên giới.
* P.V: Trong hành trình 45 năm qua, các cột mốc quan trọng gắn liền với quá trình phát triển của Công ty như thế nào, thưa ông?
- Ông Võ Toàn Thắng: Lịch sử 45 năm của Công ty luôn gắn liền với các giai đoạn chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế của đất nước. Giai đoạn 1977-1986, nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ bao cấp, thiếu thốn đủ đường. Trong khi đó, cán bộ, công nhân (CBCN) phải vừa tháo gỡ bom mìn, cải tạo đất, vừa xây dựng lực lượng tự vệ tại chỗ, truy quét FULRO. Với sự nỗ lực của tập thể lãnh đạo và công nhân, Công ty đã trồng được hơn 2.200 ha cao su và từng bước tạo lập, duy trì được một đơn vị kinh tế trên địa bàn chiến lược.
Giai đoạn 1987-2002, đất nước thực hiện đổi mới, Công ty bắt đầu có sự bứt phá tăng trưởng. Cơ chế khoán hình thành, tạo nên sự năng động sáng tạo trong sản xuất. Giai đoạn này, Công ty có sản phẩm đầu tiên, có doanh thu và tích lũy để tăng tốc phát triển. Công ty đã thực hiện hàng loạt biện pháp như: sắp xếp lại tổ chức, áp dụng mô hình quản lý tiên tiến trực tuyến chức năng với 3 cấp quản lý Công ty-Nông trường, Xí nghiệp-Đội sản xuất, đào tạo đội ngũ CBCN theo hướng chuyên sâu đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện quy trình kinh tế kỹ thuật cho quá trình thâm canh tăng năng suất, thanh lý những diện tích yếu kém, thay thế bằng bộ giống mới kháng bệnh cho năng suất cao, cải tạo, nâng cấp và làm mới cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà máy chế biến mủ cao su, nhà máy sản xuất phân vi sinh, trung tâm y tế để chăm sóc sức khỏe cho CBCN và người dân trong khu vực.
Giai đoạn 2002-2012, thời kỳ hưng thịnh nhất của ngành cao su khi giá mủ tăng cao đỉnh điểm vào năm 2011. Công ty theo đó cũng đã gặt hái nhiều thành tựu. Cụ thể: Năm 2003, thành lập Xí nghiệp Chế biến gỗ cao su và gỗ rừng trồng (tổng công suất sơ chế 6.000 m3/năm). Từ năm 2009-2012, thành lập Nông trường An Biên và An Phú với tổng diện tích 7.000 ha; lắp đặt dây chuyền chế biến mủ Latex công suất 3.000 tấn/năm; đầu tư dự án trồng cao su tại Vương quốc Campuchia, thành lập Công ty cổ phần Cao su Chư Prông-Stung Treng. Trong thời kỳ này, Công ty đã đẩy mạnh sản xuất theo chiều sâu và phát triển thị trường tiêu thụ, duy trì và phát triển diện tích cao su vững chắc kết hợp với các chương trình kinh tế tổng hợp ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; thực hiện thành công chương trình xóa đói, giảm nghèo tại các vùng dự án.
Từ năm 2012 đến nay, Công ty đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, sắp xếp lại lao động theo hướng tinh gọn hiệu quả. Tổng tài sản hàng năm tăng từ 1.200 tỷ đồng lên 1.511 tỷ đồng; năng suất vườn cây tăng từ 1,25 tấn/ha lên 1,55 tấn/ha; sản lượng mủ cao su khai thác và chế biến trong 10 năm đạt 81.613 tấn; tổng doanh thu đạt 3.703 tỷ đồng, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 67,6 triệu USD; lợi nhuận trước thuế đạt gần 654 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước gần 278 tỷ đồng. Liên tục từ năm 2014-2021, Công ty đều vượt sản lượng kế hoạch Tập đoàn giao với mức vượt từ 5% đến 15%, về đích trước thời hạn 15-30 ngày, riêng năm 2021 về đích trước 38 ngày.
Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông Võ Toàn Thắng (thứ 2 từ phải sang) thăm vườn cây của đơn vị. Ảnh: Vũ Thảo
Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông Võ Toàn Thắng (thứ 2 từ phải sang) thăm vườn cây của đơn vị. Ảnh: Vũ Thảo
* P.V: Kết quả của quá trình 45 năm đổi mới và phát triển là những thành tựu đáng ghi nhận, ông có thể chia sẻ về điều này?
Với những thành tích xuất sắc qua 45 năm xây dựng và phát triển, Công ty vinh dự được Nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới; Huân chương Độc lập hạng nhì, hạng ba; Huân chương Lao động hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến công hạng nhì; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng ba. 4 tập thể cơ sở và 17 cá nhân được tặng huân chương các loại và nhiều bằng khen của các cấp, ngành.
- Ông Võ Toàn Thắng: Trải qua 45 năm với những mốc son lịch sử là khoảng thời gian thể hiện rõ tố chất bền vững của một công ty có bề dày truyền thống xây dựng, đổi mới và phát triển. Hiện Công ty có 7 nông trường trồng, chăm sóc và khai thác cao su, cà phê, cây công nghiệp; 1 xí nghiệp chế biến mủ cao su công suất 10.000 tấn/năm; 1 xí nghiệp chế biến gỗ cao su và gỗ rừng trồng công suất 6.000 m3/năm; 1 trung tâm y tế với công suất điều trị 60 giường bệnh và 1 công ty cổ phần kinh doanh cao su tại Campuchia. Tổng diện tích đất tự nhiên đang quản lý là 9.546 ha, trong đó hơn 9.505 ha đất nông nghiệp. Diện tích cao su khai thác 5.382 ha; kiến thiết cơ bản 3.123 ha; diện tích vườn ươm giống cao su 5,8 ha; diện tích cà phê kinh doanh hơn 125 ha; diện tích trồng chuối xuất khẩu 89 ha; đất phi nông nghiệp 40,56 ha. Công ty đang đầu tư 3.500 ha cao su tại Vương quốc Campuchia.
Ngoài sản xuất ổn định vườn cây, Công ty còn đầu tư xây dựng, bổ sung trang-thiết bị phục vụ chế biến nhằm đáp ứng yêu cầu thị trường. Các dòng sản phẩm mủ chính của Công ty cung ứng ra thị trường gồm: SVR3L, SVR5, SVR10 và 20. Cùng với đó, Công ty đã mạnh dạn phát triển thêm dòng sản phẩm CV50, CV60, đặc biệt đã áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại tạo nên sản phẩm mủ Latex công suất 3.000 tấn/năm đầu tiên trên địa bàn Tây Nguyên, chiếm tỷ trọng 30% tổng sản phẩm của đơn vị. Sản phẩm mủ cao su của Công ty đạt tiêu chuẩn chất lượng VRG, đáp ứng yêu cầu khắt khe của những khách hàng khó tính tại thị trường Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu, Brazil, Trung Quốc và một số quốc gia khác.
Với phương châm hoạt động sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, năm 2019, Công ty đã đầu tư hơn 40 tỷ đồng cho Dự án cải tạo và nâng cấp hệ thống xử lý nước thải nhà máy chế biến mủ cao su từ cột B lên cột A với công suất 1.200 m3/ngày đêm. Năm 2020, Công ty xây dựng hệ thống quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn FM/VFCS ST 1003:2019 cho 2.600 ha cao su tại Nông trường Thống Nhất và Thanh Bình; xây dựng chuỗi hành trình sản phẩm từ vườn cây tới nhà máy theo tiêu chuẩn PEFC/CoC 2002:2020. Bên cạnh đó, Công ty cũng đang thực hiện hệ thống ISO 14.000 quản lý môi trường từ đội sản xuất đến nhà máy chế biến mủ cao su. Nhờ đó, năm 2021 Công ty đã được chọn vào top 100 doanh nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam theo chương trình CSI do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam công bố.
Sản xuất kinh doanh hiệu quả đã tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động. Thu nhập tiền lương bình quân trong 10 năm của CBCN là 6,5 triệu đồng/người/tháng, riêng năm 2021 đạt 7,6 triệu đồng/người/tháng. Các chế độ như đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chế độ tiền thưởng, ăn ca, hỗ trợ lao động… được thực hiện tốt. Cùng với đó, trong 10 năm qua, Công ty đã chi cho công tác an sinh xã hội hơn 40 tỷ đồng.
Có thể nói, những thành tích đạt được trong 45 năm qua của Công ty là sự kết tinh từ trí tuệ, tinh thần đoàn kết và công sức các thế hệ CBCN. Dưới bàn tay và khối óc của con người đã biến vùng đất hoang tàn sau chiến tranh trở nên trù phú, đem lại cuộc sống no ấm cho hàng ngàn công nhân, tạo việc làm cho nhiều người dân địa phương, góp phần ổn định kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng-an ninh trên địa bàn huyện biên giới.
* P.V: Xin cảm ơn ông!
THẢO NGUYÊN - HỒNG THƯƠNG (thực hiện)

Có thể bạn quan tâm

Thủ tướng đề xuất 3 định hướng đột phá để ASEAN trở thành hình mẫu trong chuyển đổi số trên toàn cầu

Thủ tướng đề xuất 3 định hướng đột phá để ASEAN trở thành hình mẫu trong chuyển đổi số trên toàn cầu

(GLO)- Tại Tọa đàm với doanh nghiệp các nước ASEAN-nơi có thể có hiệp định kinh tế số khu vực đầu tiên trên thế giới, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu 3 lĩnh vực ưu tiên và đề xuất 3 định hướng đột phá để ASEAN trở thành hình mẫu trong chuyển đổi số trên toàn cầu.