(GLO)- Sở Thông tin và Truyền thông vừa có hướng dẫn một số quy định cụ thể, điều kiện và tổ chức việc xét công nhận xã đạt tiêu chí số 8 (tiêu chí bưu điện) thuộc Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới (NTM). Xung quanh các tiêu chí và thực trạng vấn đề về thông tin, truyền thông hiện nay, ông Ngô Hữu Công-Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông cho biết:
Hiện toàn tỉnh có 159/185 xã có điểm Bưu điện văn hóa xã (BĐVHX). Tuy nhiên, vài năm trở lại đây thì mức độ khai thác các điểm BĐVHX còn hạn chế. Sự bùng nổ các phương tiện thông tin di động khiến các điểm này chỉ còn hoạt động cầm chừng. Chính vì không có nguồn thu nên nhiều điểm BĐVHX xuống cấp, không được sửa chữa, chi trả lương cho nhân viên thấp… khiến nhiều điểm BĐVHX hầu như không hoạt động.
Nhu cầu sử dụng dịch vụ internet vùng nông thôn hiện rất ít mặc dù 100% số xã có internet, trong đó 34/185 xã có internet đến thôn. Sở đã trang bị 183 máy vi tính có đường truyền internet đến 15 huyện của tỉnh, trong đó có 7 huyện có trên 5 máy.
- Chiếu theo tiêu chí số 8 trong Bộ tiêu chí quốc gia về NTM, tỉnh ta nằm ở “phân khúc” nào?
Theo tiêu chí đánh đánh giá xã đạt NTM thì xã có ít nhất một điểm phục vụ bưu chính, viễn thông. Trường hợp xã không có điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng nếu có ít nhất 30% số hộ gia đình trong xã có thuê bao riêng sử dụng dịch vụ viễn thông thì được coi là đạt tiêu chí về điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng. Với số điểm BĐVHX phục vụ bưu chính, viễn thông kể trên và mật độ sử dụng điện thoại hiện nay là 105,54 thuê bao/100 dân thì nhiều xã có thuận lợi để đạt tiêu chí này.
Tiêu chí thứ hai là xã phải có internet đến thôn. Theo đó, xã được công nhận đạt tiêu chí phải có ít nhất 30% số thôn thuộc xã có hạ tầng kỹ thuật viễn thông, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ truy nhập internet cho tổ chức, cá nhân trên địa bàn thôn; có các điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng đạt tiêu chuẩn về chất lượng dịch vụ theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Chiếu theo tiêu chí này thì hiện chúng ta đã có 118/185 xã có internet đến xã (tính đến trung tâm xã). Về hạ tầng mạng, có 141/185 xã có cáp đồng (đạt 76,2%), 173/185 xã có cáp quang (đạt 93,5%).
So chiếu với tiêu chí NTM ngành thông tin, truyền thông thì nhiều xã của tỉnh đã đạt được cả hai tiêu chí này.
- Xây dựng NTM không thể chỉ nhìn mặt hình thức, cũng như tiêu chí về thông tin, truyền thông, chúng ta có nhưng chưa phát huy được tác dụng, ý kiến của ông như thế nào?
Đúng là chúng tôi chưa thể đánh giá mức độ sử dụng của người dân cũng như các thiết chế bưu điện phát huy tác dụng như thế nào ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, hiện mạng lưới internet phủ sóng rộng khắp, cơ sở hạ tầng viễn thông tại trung tâm các xã khu vực nông thôn, vùng biên giới được đầu tư xây dựng tương đối đầy đủ. Bên cạnh đó, giao thông được nâng cấp tạo thuận lợi trong giao thương, đi lại của người dân. Điện, trạm y tế, trường học… được quan tâm đầu tư là điều kiện để dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển tại địa bàn xã. Từ đó, BĐVHX có thể phát huy thêm nhiều dịch vụ.
Trong năm 2012, từ nguồn vốn trên 3 tỷ đồng từ chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở, chúng tôi sẽ phân bổ cho các địa phương để sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích. Sắp tới, Sở Thông tin và Truyền thông sẽ mở lớp đào tạo cán bộ làm công tác tuyên truyền tại xã, thôn. Năm 2011, chúng tôi đã mở 3 lớp, đào tạo trên 300 cán bộ làm công tác tuyên truyền tại xã, thôn trong tỉnh. Đội ngũ này sẽ góp phần tuyên truyền đến người dân vùng nông thôn trong tỉnh hiểu rõ lợi ích thiết thực của các điểm BĐVHX, đồng thời chỉ đạo UBND các xã phối hợp với Bưu điện huyện quy hoạch, nâng cấp hệ thống BĐVHX để phát huy hiệu quả các điểm phục vụ bưu chính, viễn thông, internet đã được đầu tư.
- Sự phát triển của các doanh nghiệp viễn thông là nhân tố góp phần tích cực thực hiện thành công tiêu chí về bưu điện, ngành thông tin-truyền thông tạo điều kiện như thế nào cho họ?
Tỉnh đã “mở cửa” trong kêu gọi đầu tư và chúng tôi đã chấp hành chủ trương này. Cụ thể, tỉnh có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng mạng lưới viễn thông băng rộng và cung cấp dịch vụ thông qua chính sách ưu đãi về thuế, vốn, đầu tư, đất đai theo quy định của pháp luật. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư và kinh doanh cung cấp dịch vụ viễn thông và internet, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ, cung cấp dịch vụ gia tăng và internet.
- Cảm ơn ông!
Hoàng Ngọc (thực hiện)