Krông Pa một thuở

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Nhà báo Trần Hiếu vừa có một phóng sự trên báo Thanh Niên về bò ở vùng nắng nóng Krông Pa (tỉnh Gia Lai). Đọc xong khiến tôi nhớ bao chuyện ngổn ngang về vùng đất được mệnh danh là “chảo lửa” ấy.
Ngày chưa chia tách tỉnh, 2 huyện xa nhất của Gia Lai-Kon Tum là Đak Glei về phía Bắc và Krông Pa về phía Nam. Đak Glei thì 3 năm sau khi lên Pleiku tôi đã tới, còn Krông Pa thì phải... 5 năm sau nữa. Từ Pleiku muốn xuống Krông Pa thì đa phần là phải... ngủ đêm ở Ayun Pa, cái bến xe lèo tèo vài chuyến xe khách một ngày bây giờ là trụ sở Công an một phường của thị xã Ayun Pa, có cái nhà bán vé vách gỗ mái tôn. Ban đêm là nơi khách ngủ tạm để 3 giờ sáng dậy lục tục xếp hàng mua vé.
Cái sự nhộn nhịp người ban đêm ở bến xe thị trấn phố huyện Ayun Pa kia là do khách “quá cảnh” ngủ lại chờ xe đi tiếp. Đi đâu: Xuống Krông Pa! Ôi chao ơi là cái thời bao cấp. Từ Pleiku xuống Krông Pa phải đi 2 chặng xe. Pleiku-Ayun Pa mất nguyên 1 ngày. Phải ngủ lại bến xe, gọi đúng là vạ vật ở đấy, trong cái nhà tuềnh toàng bốn phía ván, nền xi măng, mái tôn nóng hầm hập. Vạ vật để chen nhau mua 1 cái vé để rồi sáng hôm sau đi thêm 50 cây số nữa, gập ghềnh hơn cả đường trên mặt trăng, đèo đẽo thêm gần ngày nữa mới tới cái thị trấn còn buồn hơn cả thị trấn phố huyện trong văn Thạch Lam. Mà không buồn không được, cả thị trấn một con đường đất đỏ quạch bụi mù, điện đường là thứ xa xỉ, dân cư thưa thớt.
Thực ra, khoảng những năm 80 của thế kỷ trước, Krông Pa có bò rồi nhưng chưa nổi tiếng, vì có ai được ăn đâu. Đa phần là bán đi đâu đấy, chứ ít thấy bán trên thị trường, bởi đơn giản, bán cũng chả ai có tiền mua. Bản thân bà con Jrai thì họ chỉ làm thịt bò khi nhà có việc trọng như: pơ thi, lễ thổi tai, mừng lúa mới, cúng người chết... năm một lần cũng đã là nhiều rồi, làm và ăn trong nhà, dòng họ hoặc trong làng. Những con bò được chọn để làm thịt sẽ được ăn no, rồi dắt về cột ở sân nhà sàn. Từng người trong nhà sẽ đứng thành hàng nắm sợi thừng, nhà càng đông người, sợi thừng càng dài. Một người đàn ông trong nhà được chọn cầm cây le vót nhọn, bằng một động tác nhanh mạnh dứt khoát, lao cây le vào nách bò. Đa phần trúng tim, con bò gục xuống ngay. Rồi họ đốt. Con bò làm ra có mấy món chính, trong đó có một món làm nên thương hiệu Jrai, thương hiệu Krông Pa, là cà xóc. Thực ra cho tới giờ, tôi cũng không biết rằng, cà xóc có phải tiếng Jrai không, nhưng giờ nó thành món Jrai phổ biến rồi, ai cũng gọi thế.
Khung cảnh thanh bình ở buôn Blăk, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa. Ảnh: Hoàng Ngọc
Khung cảnh thanh bình ở buôn Blăk, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa. Ảnh: Hoàng Ngọc
Hồi bao cấp xuống Krông Pa có một thứ “đặc sản” dân nhậu rất thích, ấy là uống bia thoải mái, còn mua mang về nữa. Thời ấy, cả nước “bán bia kèm lạc”, tức mua bia phải mua kèm mồi, ít nhất là lạc, toàn đắt hơn bia. Pleiku không ngoại lệ, nhưng Krông Pa thì không. Hình như họ có chính sách đổi nông sản lấy bia gì đấy. Mấy anh tài xế “có điều kiện” mỗi lần từ Krông Pa lên là chở theo bia. Còn cánh chúng tôi đi công tác, việc đầu tiên là... mua bia uống. Tất nhiên, người vài chai là hết sức rồi. Và hồi ấy cũng chưa thấy món bò một nắng xuất hiện thì phải, hay chính xác là nó chưa có trên thị trường, bà con chỉ tự làm ăn với nhau. Theo tôi biết, bò một nắng nó có xuất xứ từ nai, bà con bắn được con nai, ăn không hết thì mang phơi nắng rồi gác bếp ăn dần. Sau này nai hiếm, bò nhiều, bèn chuyển sang công nghệ bò.
Cũng vài chục năm trước, ở Krông Pa, có một người mỗi tuần làm đúng 1 con bò, đúng 1 con vào một ngày cố định, bán hết là thôi, nghỉ, đợi đúng ngày ấy tuần sau mới làm. Bò tươi ngon khiến nhiều người ở Ayun Pa, thậm chí Pleiku căn ngày chạy xuống ăn. Là lúc này bắt đầu có không khí “kinh tế thị trường” rồi, nhiều người ở Pleiku căn ngày đi công tác vào đúng ngày này, xuống ăn một bữa bò tươi cho đỡ thèm.
Krông Pa tôi có vài người bạn, như họa sĩ Trần Quang Lực, cán bộ Ban Dân vận Huyện ủy, từng dạy tiếng Jrai rất giỏi, giờ về hưu vẫn bám trụ Krông Pa. Như họa sĩ Ngô Tuyến, sau mấy chục năm “bám trụ” Krông Pa mới chuyển về công tác tại Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch. Và như Phạm Ngọc Xuân, dân học văn Đại học Tổng hợp Huế, nguyên Bí thư Huyện ủy Krông Pa, nay thì chúng tôi hàng sáng vẫn gặp nhau khi đi bộ ở Quảng trường Đại Đoàn Kết. Anh Xuân gắn bó với Krông Pa là cả hành trình dài 25 năm. Nhớ cái thời anh từ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy được điều xuống Krông Pa tới giờ, là cả một trời một vực. Nói thế vì tôi vừa đi họp lớp ở Tuy Hòa, lái xe trên đường 25, qua Krông Pa, thấy cảnh sắc nơi này đẹp như tranh vẽ, tìm mãi chả ra những chốn mình từng lang thang một thuở. Thực địa tìm không ra, nhưng ký ức mãi còn...
VĂN CÔNG HÙNG

Có thể bạn quan tâm

Pleiku hướng đến đô thị hiện đại, giàu bản sắc-Kỳ 1: “Đất lành chim đậu”

E-magazinePleiku hướng đến đô thị hiện đại, giàu bản sắc-Kỳ 1: “Đất lành chim đậu”

(GLO)-Sau ngày giải phóng, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân thị xã Pleiku đã chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, phát huy bản lĩnh, trí tuệ để kiến thiết, xây dựng quê hương. Từ một thị xã hoang tàn sau chiến tranh, Pleiku đã phát triển mạnh mẽ và trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh.
Anh Nay Thuế (buôn Chư Jut) vui vẻ khi mùa đầu tiên trồng cây thuốc lá thành công cho thu nhập cao hơn so với trồng cây mì. Ảnh: Lê Nam

Chư Gu chú trọng công tác giảm nghèo bền vững

(GLO)- 

Xác định công tác giảm nghèo bền vững là một trong những nhiệm vụ quan trọng, do đó cấp ủy, chính quyền địa phương và Mặt trận, hội đoàn thể xã Chư Gu (huyện Krông Pa) đã triển khai nhiều giải pháp giúp người dân phát triển kinh tế, vươn lên thoát nghèo.

Chung tay giúp làng Chuk vươn lên

Chung tay giúp làng Chuk vươn lên

(GLO)- Mặc dù không có tên trong danh sách 20 sở, ngành được phân công kết nghĩa theo Chỉ thị số 13-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai nhưng Cục Quản lý thị trường tỉnh đã chủ động kết nghĩa với làng Chuk, xã Kon Thụp, huyện Mang Yang.
Vang mãi tiếng chiêng làng Châu

Vang mãi tiếng chiêng làng Châu

(GLO)- Bao thế hệ người Bahnar ở làng Châu (xã Chư Krêy, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) vẫn gắn bó với cồng chiêng bởi đó là nguồn cội, là bản sắc văn hóa của dân tộc. Chính sự tiếp nối, trao truyền giữa các thế hệ đã đưa thanh âm cồng chiêng của ngôi làng này vang vọng mãi.