Đô thị

Nhịp sống Đô thị

Cơ chế đặc thù giúp quản lý và khai thác khoáng sản hiệu quả

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Thực hiện Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP của Chính phủ, UBND tỉnh Gia Lai cùng các sở, ngành liên quan đã chủ động áp dụng cơ chế đặc thù trong lĩnh vực khoáng sản.

Việc này vừa tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án trọng điểm, vừa bảo đảm kỷ cương quản lý, tránh thất thoát tài nguyên và giữ ổn định đời sống nhân dân.

Đưa nghị quyết vào thực tiễn

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.4/2025/NQ-CP (NQ 66.4) ngày 21-9-2025 về một số cơ chế, chính sách đặc thù tháo gỡ khó khăn trong thực hiện Luật Địa chất và Khoáng sản (ĐC&KS) năm 2024, UBND tỉnh đã chủ động ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai.

Việc nhanh chóng cụ thể hóa Nghị quyết 66.4 góp phần tháo gỡ các vướng mắc, đảm bảo nguồn khoáng sản phục vụ các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh. Ảnh: V.L

Ngày 30-9, Sở Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan tổ chức họp bàn triển khai NQ 66.4 nhằm tháo gỡ những “nút thắt” trong quản lý và khai thác khoáng sản, tập trung vào khoáng sản nhóm III, IV để đáp ứng nguồn vật liệu phục vụ các công trình, dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh.

Ông Trần Đình Chương-Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường-cho biết: “Trong bối cảnh nhiều dự án, công trình trọng điểm đang triển khai trên địa bàn tỉnh như đường sắt cao tốc Bắc-Nam, cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, đường băng số 2 Cảng hàng không Phù Cát…, việc UBND tỉnh nhanh chóng cụ thể hóa NQ 66.4 là rất cần thiết. Áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù trong thực hiện Luật ĐC&KS 2024 sẽ tháo gỡ các vướng mắc, cung cấp nguồn khoáng sản phục vụ dự án đảm bảo tiến độ”.

Trên tinh thần này, Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các sở, ngành liên quan xác định các công trình, dự án, nhiệm vụ cụ thể được áp dụng quy định tại NQ 66.4. Các ban quản lý dự án và UBND cấp xã đề xuất các vị trí điểm mỏ vật liệu phục vụ công trình, dự án đầu tư công, được cấp thẩm quyền giao làm chủ đầu tư theo quy định.

Đồng thời, đơn vị chịu trách nhiệm lựa chọn, sử dụng, giám sát mỏ vật liệu để phục vụ dự án, công trình theo đúng quy định, đảm bảo không gây thất thoát ngân sách nhà nước. Đồng thời hỗ trợ, hướng dẫn nhà đầu tư hoặc nhà thầu thi công về bồi thường, giải phóng mặt bằng và thuê đất khai thác khoáng sản.

“Vị trí các điểm mỏ đề xuất phải phù hợp cự ly, không có DN đang thăm dò, khai thác khoáng sản, không thuộc khu vực cấm hoặc tạm cấm hoạt động khoáng sản; cách xa khu dân cư, giảm thiểu ảnh hưởng đến đời sống người dân”-ông Trần Đình Chương thông tin thêm.

Kiểm soát chặt chẽ, tránh lạm dụng

Theo NQ 66.4, việc thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm III, IV phục vụ thi công các công trình, dự án trọng điểm được giản lược nhiều thủ tục hành chính. Các mỏ đã có giấy phép được phép điều chỉnh, nâng công suất khai thác tối đa 50% đối với cát, sỏi lòng sông, cửa biển và không giới hạn đối với các loại khoáng sản khác; không phải làm lại các thủ tục về đầu tư, môi trường hay cấp phép mới.

NQ 66.4 góp phần đảm bảo nguồn khoáng sản phục vụ các dự án, công trình trọng điểm về giao thông trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Văn Lực

Chủ tịch UBND cấp tỉnh được trao thẩm quyền cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm III, IV cho tổ chức, cá nhân đủ điều kiện, phục vụ công trình, dự án trọng điểm hoặc nhiệm vụ cấp bách. Cơ chế này rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giúp địa phương chủ động nguồn vật liệu, giảm tình trạng thiếu hụt cát, đá, đất san lấp cho các dự án đầu tư công.

Tuy nhiên, việc nới lỏng thủ tục không đồng nghĩa với buông lỏng quản lý. Ông Trương Bá Vinh-Trưởng Phòng ĐC&KS (Sở Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh: “NQ 66.4 có tính cởi mở, tháo gỡ khó khăn, nhưng cũng rất chặt chẽ để tránh lợi dụng cơ chế gây thất thoát tài nguyên. Các đơn vị phải tuân thủ quy định, khai thác đúng công suất, đúng vị trí, phục vụ đúng công trình, dự án được phép”.

Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với sở, ngành và chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát hiện trường, nhất là tại các khu vực nhạy cảm. Đồng thời, kiểm soát nghiêm hoạt động vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản; xử lý triệt để hành vi khai thác vượt phép, gây ô nhiễm môi trường hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi. DN phải lắp đặt hệ thống giám sát sản lượng khai thác, báo cáo định kỳ, thực hiện đầy đủ biện pháp bảo vệ môi trường và phục hồi sau khai thác.

Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Tuấn Thanh, việc khẩn trương đưa NQ 66.4 vào thực tiễn là nhiệm vụ quan trọng, góp phần đảm bảo nguồn vật liệu phục vụ các dự án hạ tầng, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và phát triển KT-XH. Tuy nhiên, quá trình thực hiện phải bảo đảm không gây thất thoát ngân sách, chặt chẽ về trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật; quản lý chặt chẽ tài nguyên, bảo vệ môi trường, giữ ổn định đời sống nhân dân.

Có thể bạn quan tâm