Văn tự cổ thuộc về di sản tư liệu chữ viết, như văn bia, sắc phong, hoành phi, câu đối, giấy tờ đất, sách thuốc, kinh thư… viết bằng chữ Hán, chữ Nôm do người xưa để lại. Lịch sử di cư và tụ cư của người Việt trên vùng đất Gia Lai suốt nhiều thế kỷ qua đã để lại một kho tàng, tài sản quý báu như vậy. Việc tìm kiếm chứng cứ, gốc gác một vùng đất, vùng văn hóa không thể tách rời với nguồn di sản tư liệu này. Số lượng tư liệu chữ viết cổ hiện nay tại Gia Lai còn khá lớn, được lưu giữ trong các đình miếu, chùa chiền, nhà cổ và trong dân gian. Trong thời gian dài, do ít người thông thạo Hán-Nôm nên việc nghiên cứu, giải mã nguồn tư liệu cổ này chưa đạt được nhiều kết quả và phát hiện như mong đợi.
Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bước vào thế giới văn tự cổ tại Gia Lai từ năm 2018, khi khảo sát thực địa thực hiện hồ sơ di tích cấp tỉnh cụm đình miếu Tân Lai-Tân Chánh, đình Tân An và miếu Thanh Minh tại thị xã An Khê. Bắt đầu từ đây, anh có những phát hiện mới mẻ về lịch sử, văn hóa của cộng đồng người Kinh cư trú lâu đời nhất vùng Đông Gia Lai là An Khê, Đak Pơ.
Từ giữa năm 2021, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bắt đầu công bố các phát hiện từ việc khai thác, giải mã di sản văn tự cổ trên Báo Gia Lai và trang thông tin điện tử Bảo tàng tỉnh. Theo đó, nhiều thông tin quan trọng và thú vị về lịch sử, văn hóa vùng An Khê được hé lộ. Tại Đak Pơ, anh phát hiện sắc phong thần Núi duy nhất được lưu giữ tại đình Chí Công. Địa điểm còn giữ được nhiều sắc thần nhất là đình An Thuận. Đình Chí Thành là nơi lưu giữ 2 đạo sắc thần cuối cùng triều đình nhà Nguyễn phong cho Gia Lai.
Tại An Khê, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn phát hiện mảnh giấy cũ bị lãng quên trong hòm sắc nhưng lại chứa đựng thông tin quý giá về đạo sắc thần đã mất tại đình An Khê. Hay thông qua việc giải mã nội dung các bài văn tế cổ nhất của Gia Lai hiện còn tại miếu An Xuyên, anh đã giúp các bô lão nơi đây tìm lại tín ngưỡng thờ Thủy Thần độc đáo của cư dân làng chài bên bờ sông Ba bị thất truyền. Tìm hiểu hệ thống phân bố đình miếu tại An Khê, anh phát hiện ra mối quan hệ đặc biệt giữa các di tích trong việc phản ánh quá trình lập làng cũng như mạng lưới tín ngưỡng dân gian thuộc cụm di tích của thôn An Khê, thôn Cửu An. Từ những phát hiện, anh đã thực hiện và cung cấp thông tin tư liệu để bổ sung 6 điểm di tích vào hồ sơ Quần thể di tích quốc gia đặc biệt Tây Sơn Thượng đạo. Còn tại Krông Pa, anh phát hiện nhiều thông tin có tính thay đổi căn bản nhận thức cũ liên quan đến đền thờ tiền hiền làng Phú Cần, góp phần bổ sung nguồn tư liệu quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử di cư, khai hoang, lập làng của người Kinh buổi đầu ở vùng đất hạ du sông Ba.
Vừa qua, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn được Viện Nghiên cứu Hán Nôm mời trình bày tham luận về hệ thống sắc thần của Gia Lai tại hội nghị nghiên cứu Hán Nôm toàn quốc diễn ra ở Hà Nội. Đây cũng là lần đầu tiên di sản Hán Nôm Gia Lai được biết đến một cách rộng rãi trong giới chuyên gia, các nhà khoa học trên cả nước.
Riêng về di tích cấp tỉnh, anh đã tham gia nghiên cứu, lập hồ sơ 16 đình miếu các loại tại An Khê, Krông Pa.
Năm 2022, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn đề xuất và được giao chủ nhiệm đề tài cấp tỉnh về bảo tồn, phát huy giá trị di sản Hán Nôm trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Việc khảo sát tổng thể này rất nặng nhọc vì triển khai diện rộng, nhưng nó là cách nhanh nhất để có cái nhìn tổng thể về di sản tư liệu chữ viết cổ, xây dựng kho dữ liệu lớn làm nền tảng vững chắc cho các nghiên cứu chuyên sâu về sau. Nhờ kết quả thu được từ cuộc tổng điều tra di sản tư liệu chữ viết này mà các nhận định, đánh giá về đối tượng nghiên cứu của anh có độ tin cậy, thuyết phục hơn.
Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn lớn lên tại vùng An Phú, TP. Pleiku. Sau này, anh học tập và làm việc tại TP. Hồ Chí Minh, trở thành chuyên gia lý luận văn học và văn hóa truyền thống của Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Anh đã công bố hàng trăm bài nghiên cứu, dịch thuật, đề tài chuyên môn khi ở Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. Năm 2020, anh xin chuyển công tác về Bảo tàng tỉnh. Ban đầu ý định của anh là để gần nhà và để đỡ “nặng đầu” vì công việc nghiên cứu khoa học nhọc nhằn. Nhưng không ngờ thực tế địa phương lại khiến “bệnh nghề nghiệp” và khát vọng khám phá trong anh trỗi dậy, đến mức “còn nhức đầu hơn cả khi ở trỏng” như anh chia sẻ.
Ông Lê Văn Hương-Trưởng ban Quản lý cụm di tích cấp tỉnh đình miếu Tân Lai-Tân Chánh (thị xã An Khê) cho biết: “Tất cả những gì tiền nhân để lại đều ở dạng văn tự Hán-Nôm. Trong khi lớp người biết loại chữ này trên vùng đất An Khê rất hiếm hoi. Phần lớn những người trông coi các đình, miếu hiện nay như chúng tôi đều không biết ngôn ngữ cổ này. Do đó, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn đã đóng góp rất lớn khi dịch thuật, giải nghĩa những thông tin quan trọng, làm sáng tỏ giá trị văn hóa, lịch sử, giúp chúng tôi và thế hệ con cháu hiểu rõ gốc gác, lai lịch của mình. Nhờ có anh, nhiều văn bản Hán-Nôm được các thế hệ “ông từ giữ đình” lưu giữ hàng thế kỷ qua mới được làm sáng rõ”.
Khi nói về văn hóa Gia Lai, Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn nhìn về phía núi lửa Chư Đang Ya tâm sự: “Đây là vùng đất đa dân tộc, đa văn hóa, như hình dáng và sắc màu ngọn núi lửa kia, dù đã được những người đi trước tìm hiểu, khám phá hàng trăm năm qua, nhưng vẫn là khu rừng rộng lớn, nhiều tiềm năng chờ đón những nghiên cứu mới, phát hiện mới. Những người đi sau còn vô vàn cơ hội để góp sức mình, nếu có tình yêu và sự kiên trì với vùng đất này”.
Hiện số người nghiên cứu khoa học trẻ ở Gia Lai khá hiếm hoi, lại chưa được tập hợp để phát huy sức mạnh trí tuệ. Bản thân người làm nghiên cứu văn hóa muốn có kết quả, đóng góp mới so với thế hệ trước phải thực sự nỗ lực, trước tiên cần khắc phục nhược điểm, hạn chế về ngôn ngữ. Ví dụ muốn nghiên cứu văn hóa của cộng đồng dân tộc thiểu số ở Gia Lai thì cần thông thạo tiếng Jrai, Bahnar; nghiên cứu văn hóa người Kinh phải đọc dịch được văn tự Hán Nôm. Nhưng như vậy chưa đủ, còn phải giỏi ít nhất một ngoại ngữ lớn để cập nhật các phương pháp, lý thuyết nghiên cứu mới trên thế giới, từ đó ứng dụng vào thực tế thì mới đem nghiên cứu của mình đi xa và không bị lạc hậu. Đây là điều kiện căn bản mà người nghiên cứu phải tự trang bị đầy đủ cho mình trên con đường làm khoa học. Nếu không, những người đi sau khó có đóng góp mới so với những người đi trước.
Có thể vì những hạn chế đã nêu mà những năm gần đây, Gia Lai thiếu vắng những công trình khoa học về văn hóa, lịch sử của người trẻ. Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn chia sẻ: “Có nhiều vấn đề, nhiều khoảng trống trong nghiên cứu ở Gia Lai cần được bù lấp, trong khi lại rất thiếu những người đủ điều kiện tiếp cận và khám phá chúng. Tỉnh Gia Lai cần xây dựng chính sách đãi ngộ, thu hút những chuyên gia, nhà khoa học, nhất là người trẻ có trình độ, năng lực để họ đóng góp xây dựng tỉnh nhà. Thành tựu khoa học là nguồn lực, nền tảng để phát triển mọi vấn đề của xã hội một cách bền vững”.