(GLO)- Là một trong những người tiên phong ở xã Ia Tiêm, huyện Chư Sê, tham gia mô hình sản xuất cà phê theo tiêu chuẩn VietGAP, anh Phan Bá Vượng (tổ hợp tác An Bình) cho biết, dù cà phê năm nay mất mùa song rẫy của anh và những người trong tổ hợp tác vẫn đạt trên 4 tấn nhân/ha. Có được kết quả trên là nhờ năm nay gia đình anh được tiếp cận với phương thức canh tác mới.
Theo anh Vượng, sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, chủ yếu là áp dụng khoa học kỹ thuật và tuân theo một quy trình rất ngặt nghèo. “VietGAP quản lý tất cả các vấn đề liên quan đến vườn cây như mua phân ở đâu, chủng loại, bón như thế nào, bón bao nhiêu. Còn thuốc bảo vệ thực vật thì cần phải chẩn đoán đúng loại sâu, bệnh từ đó xác định loại thuốc cần sử dụng. Thuốc phải được kiểm tra nguồn gốc xuất xứ, sau khi dùng hết thì thu gom vỏ, bao bì để bảo vệ môi trường. Khâu sơ chế, bảo quản sản phẩm cũng rất quan trọng. Gia đình tôi phải đầu tư sân phơi xi măng, nhà kho theo quy trình. Sau khi thu hoạch sản phẩm đạt trên 80% quả chín, phải phơi cho hạt cà phê đạt ẩm độ 13%, sàng lọc tạp chất sao cho còn khoảng 1% rồi mới đóng bao cất vào kho”-anh Vượng nói về quy trình của VietGAP.
Công ty cổ phần Cà phê Thu Hà vừa hoàn thành nhà máy chế biến cà phê bột với công suất 10 tấn/ngày (trên 3.000 tấn/năm). Ảnh: N.L |
Theo tính toán của anh Vượng, mô hình này có chi phí đầu tư ban đầu cao hơn 20% song bù lại năng suất, chất lượng lại tăng hơn 30% so với trước nên thu nhập cũng cải thiện rất rõ rệt. “Khi sản phẩm đã đạt được tất cả các tiêu chí trên, vấn đề đầu ra lúc này hết sức đơn giản. Doanh nghiệp chế biến sẽ đến tận rẫy thu mua với giá cao hơn thị trường 2.000 đồng/kg tại bất kỳ thời điểm nào, không phải ngóng đợi người mua và bị chê ỏng chê eo như trước. Đó là chưa kể chi phí phân, thuốc do được mua tận gốc từ doanh nghiệp sản xuất nên cũng tiết kiệm được khá nhiều. Với mỗi tấn cà phê nhân, người nông dân lãi thêm chừng 10 triệu đồng so với lối sản xuất truyền thống”-anh Vượng cho biết.
Theo tính toán, với 27 ha của 14 hộ trong tổ hợp tác An Bình, mỗi năm sẽ cho sản lượng tầm 120 tấn cà phê nhân. Theo cam kết, đơn vị thu mua hỗ trợ thêm 2 triệu đồng/tấn, nghĩa là tổ hợp tác An Bình sẽ thu thêm lợi nhuận trên 200 triệu đồng. Vậy, doanh nghiệp có lợi ích gì trong bài toán kinh doanh này? Trao đổi với chúng tôi, ông Ngô Tấn Giác-Giám đốc Công ty cổ phần Cà phê Thu Hà cho biết, vốn là người trồng cà phê nên ông thấu hiểu được nỗi cơ cực của người nông dân. Do đó, ông luôn muốn giúp nông dân có thêm đồng lời mà khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng và đương nhiên trong mối quan hệ này đôi bên cùng có lợi. Với việc hỗ trợ thêm 2 triệu đồng/tấn cà phê nhân cộng thêm bao bì và cho nông dân trong tổ hợp tác An Bình ký gửi hàng, theo ông Giác, doanh nghiệp vẫn không bị thiệt thòi. “Trước đây, tôi thu mua cà phê thông qua hệ thống thương lái. Năm nay bù thêm cho nông dân 2.000 đồng/kg thì cũng coi như là chi phí trung gian nhưng tin tưởng hơn bởi đây là cà phê sạch và chất lượng được đảm bảo. Điều đặc biệt là khi sản phẩm không an toàn thì có thể truy nguyên được nguồn gốc như ai sản xuất, sản xuất ở đâu, sản phẩm ô nhiễm ở khâu nào. Chính những cái lợi này nên nếu giá thị trường có xuống thấp hơn 25 triệu đồng/tấn, Thu Hà vẫn có thể thu mua cho nông dân tổ hợp tác An Bình với giá 30 triệu đồng/tấn”-ông Giác chia sẻ.
Nói về mô hình này, ông Lê Huy Toàn-Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Chất lượng Nông-Lâm-Thủy sản Gia Lai cho biết, tiêu chí hướng đến của việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP là đảm bảo an toàn chất lượng sản phẩm; bảo vệ môi trường; an sinh xã hội; truy nguyên nguồn gốc sản phẩm. Đây là mô hình mới triển khai tại Gia Lai từ năm 2014. 2 hợp tác xã được xây dựng thí điểm là Chư Á và An Bình với tổng cộng gần 50 ha, sản lượng trên 200 tấn cà phê nhân. Mô hình đã phần nào giúp nông dân thay đổi kiểu canh tác lạc hậu, tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm và thu nhập, tăng cường trách nhiệm đối với cộng đồng.
Ngọc Linh