(GLO)- Ấy là tôi muốn nói đến làng Groi, xã Đak Smar của huyện Kbang. Cả xã chỉ có 4 thôn làng, gồm 1 thôn Kinh và 3 làng Bahnar được thành lập vào tháng 6-2006, tách ra từ xã Đông. Và trong 3 làng thì đã có 2 là làng tái định cư sau khi nhường đất để xây dựng thủy điện Ka Nak là làng Groi và làng Cam.
Đak Smar nằm trên đường vào khu căn cứ cách mạng Krong và cách thị trấn huyện Kbang 27 km như một “trạm trung chuyển giữa quá khứ và hiện tại”. Phía trong là chứng tích lịch sử hào hùng của quân và dân Kbang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngoài kia là thành quả sự nghiệp đổi mới qua nhiều thập niên xây dựng huyện.
Làng Groi. Ảnh: T.P |
Và có thể nói cuộc dời làng nhường đất để làm thủy điện Ka Nak lại một lần nữa chứng minh truyền thống yêu nước, tin Đảng, hy sinh cho cách mạng luôn chảy trong huyết quản của các thế hệ người dân Bahnar nơi đây. Không ít người đến bây giờ vẫn còn cho rằng việc dời làng, chuyển rẫy là chuyện bình thường bởi đồng bào vốn quen du canh du cư. Thế nhưng đó là chuyện… ngày xưa bởi sau hàng chục năm vận động, bà con đã ổn định cuộc sống, hơn thế nữa dân làng còn biết sử dụng nhiều phương tiện sinh hoạt hiện đại, biết thâm canh cây trồng, vật nuôi nên bất đắc dĩ mới phải dời làng, làm lại từ đầu…
Chuyển về làng mới là thay đổi tập quán cũ và làm quen với nhiều cái mới, tưởng chừng như đơn giản nhưng chẳng dễ thích nghi. Nhà trệt, không phải lên bậc thang gỗ, làng không bóng cây pơ lang, không có giọt nước quanh năm tí tách dưới chân đồi… Như một thị tứ nho nhỏ, cả làng Groi được quy hoạch chạy dọc theo hai bên trục đường bê tông xi măng, nhà nào cũng giống nhà nào, rộng 45 hoặc 54 mét vuông gồm một phòng khách, hai phòng ngủ, gian bếp và công trình vệ sinh. Nước sạch đưa từ trên núi về theo đường ống chứa sẵn ở các bể chứa lớn. Nhà nào cũng có chảo thu sóng truyền hình từ vệ tinh. Buổi sáng, làng khá vắng, dân làng đã lên nương.
Lòng hồ thủy điện Ka Nak. Ảnh: T.P |
Chúng tôi ghé vào nhà ông Đinh Ble là một trong các hộ khá giả ở Groi. Trong nhà, giữa phòng khách đặt chiếc ti vi, bên vách xếp ba bao bắp lai giống và hơn chục bao phân lân Lâm Thao. Giường, tủ đủ cả. Một nhóm phụ nữ trò chuyện trước sân. Đinh Thị Hằng bế con nhỏ ngượng nghịu khi nghe tôi hỏi tuổi. Hai mươi, Hằng nói khá sõi. Như nhiều cô gái Bahnar trong vùng, cô học hết lớp 5 rồi ở nhà lấy chồng. Tên của Hằng là nhờ thầy giáo đặt cho hồi vào lớp một. Cô chỉ cho tôi sang nhà ông Đinh Rai là cán bộ lão thành cách mạng cách đó hai dãy nhà.
Ngồi giữa nhà đan gùi, ông cụ tuổi 80 nhưng trông khỏe mạnh, tay vẫn thoăn thoắt đan các que tre vót sẵn. Trên tường treo la liệt giấy khen, bằng khen của cụ và con, cháu. Chiếm một vị trí trang trọng là giấy chứng nhận Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng của cụ (1968-2008). Như đoán được thắc mắc của tôi, ông ngừng tay nói: Mình già rồi không đi làm rẫy được nên đan gùi để dùng đó mà. Bây giờ bọn trẻ lười lắm, mình phải làm thôi!
Có xuống Groi mới thấy nhiều việc cần điều chỉnh trong quá trình xây dựng nhà ở cho làng tái định cư vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Có lẽ do quen tập quán cũ nên hầu như nhà nào cũng không sử dụng công trình vệ sinh, tất cả đều chuyển thành kho chứa củi và đựng những đồ dùng lặt vặt, hoặc bỏ trống thật lãng phí. Ông Đinh Tong là cán bộ Mặt trận thôn đang xây chuồng heo phàn nàn: Nhà sát sườn núi nên nước mạch chảy xuống ngập hết nhà vệ sinh. Chuồng heo cũng ngập ngụa nước, bùn. “Phải xây chỗ khác chứ không thì con heo chết mất! Nếu khoản tiền làm nhà vệ sinh mà cho mình làm chuồng heo thì đỡ biết bao nhiêu?”.
Phó Bí thư Đảng ủy xã Võ Đình Tuấn cho biết, do được tách ra từ xã Đông mà xã này không còn là xã nghèo nên Đak Smar cũng không được hưởng lợi gì từ các chương trình mục tiêu quốc gia dành cho xã vùng đặc biệt khó khăn, mặc dù xã có đến 79% hộ nghèo (toàn xã có 259 hộ, 1.143 nhân khẩu). Nhờ được đền bù từ việc dời dân xây dựng lòng hồ thủy điện Ka Nak nên mỗi hộ làng Cam và làng Groi được cấp 1,9 ha đất rẫy sản xuất hoặc 3 sào ruộng nước. Tuy nhiên không hiểu vì sao nhiều đoạn đường giao thông trên địa bàn xã đến nay vẫn chưa được đơn vị đền bù tiếp tục thi công giúp bà con lưu thông dễ dàng. Điều đáng mừng là hiện nay đã có 58 hộ dân trồng 91,9 ha cao su tiểu điền và con số này có thể sẽ tăng lên trong vài vụ sản xuất tới.
Bữa cơm trưa tại trụ sở xã không hề đạm bạc như tôi nghĩ. Ngoài món lá mì và cà đắng theo yêu cầu, chúng tôi còn được ăn cá thỏa thích, cá lóc, cá thác lác, cá rô và cá chép.
Chúng được đánh bắt từ lòng hồ Ka Nak. Cá thiên nhiên cả đấy!-anh Nguyên-cán bộ Văn phòng UBND xã khẳng định. Anh Tuấn cho biết thêm. Trong tương lai, lòng hồ sẽ trở thành “vựa cá” lớn bởi mặt hồ rộng đến 525 ha. Hiện nay ngoài mô hình thí điểm nuôi cá lồng bè của Sở Khoa học và Công nghệ, lòng hồ Ka Nak vẫn chưa được đầu tư khai thác nuôi trồng thủy sản. Khi đó, Đak Smar sẽ còn phát triển hơn nữa, người dân không chỉ dư ăn mà còn làm giàu nhờ trồng lúa nước, cao su tiểu điền và nuôi cá nước ngọt? Tuấn cười vui khi tiễn chúng tôi lên xe về lại thị trấn huyện.
Đó không phải là viễn cảnh!
Thanh Phong