Truyền thuyết ly kỳ về trâu trắng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Câu chuyện về con trâu trắng (người xưa gọi Ngưu Tinh - NV) kết lên mối tình giữa làng Châu Lỗ (xã Mai Đình, Hiệp Hòa, Bắc Giang) và Kim Thượng (xã Kim Lũ, Sóc Sơn, Hà Nội) hơn 400 năm qua như một truyền kỳ ấn tượng.

  Khung ảnh đền Châu Lỗ với hình con trâu trắng (Ngưu Tinh) minh họa - ẢNH: T.L
Khung ảnh đền Châu Lỗ với hình con trâu trắng (Ngưu Tinh) minh họa - ẢNH: T.L


Cơ duyên trâu trắng

Theo tìm hiểu của chúng tôi, những ngôi làng kết chạ với nhau ở một số tỉnh, thành vùng đồng bằng Bắc bộ thường nằm gần nhau về mặt địa lý, có sự giao lưu qua lại thường xuyên. Những ngôi làng cũng thường cùng xã, cùng huyện, tỉnh theo địa giới hành chính.

Nhưng làng (thôn) Kim Thượng nằm bên sông Cà Lồ, còn làng (thôn) Châu Lỗ bên sông Cầu cách nhau gần 15 km theo đường đê, thuộc 2 tỉnh, thành khác nhau là Hà Nội và Bắc Giang lại có kết chạ từ hơn 400 năm trước quả thực là một hiện tượng ngoại lệ, hiếm hoi.

 

 Toàn cảnh đền Châu Lỗ - nơi trâu trắng (Ngưu Tinh) từ Kim Thượng chạy sang. Đây cũng là nơi 2 làng kết chạ, kết nghĩa năm 1594 - ẢNH: N.H
Toàn cảnh đền Châu Lỗ - nơi trâu trắng (Ngưu Tinh) từ Kim Thượng chạy sang. Đây cũng là nơi 2 làng kết chạ, kết nghĩa năm 1594 - ẢNH: N.H


Chúng tôi rất tò mò về câu chuyện trên nên đã tìm gặp một số người cao niên ở hai ngôi làng này hiện nay. Tìm tới làng Kim Thượng, xã Kim Lũ chúng tôi hỏi thăm và được một số bạn trẻ giới thiệu đến gặp được ông Nguyễn Văn Quế, Trưởng ban chấp hành hội người cao tuổi thôn. Thấy người trẻ chúng tôi đang lắng nghe câu chuyện của làng mình, ông Quế tỏ ra phấn khích và cho biết ngay: “Người dân làng tôi và bên Châu Lỗ từ già đến trẻ ai cũng biết chuyện về con trâu trắng”.

Chuyện kể rằng, đầu năm 1593 (cách đây 428 năm), chúa Trịnh Tùng cùng văn võ bá quan rước vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) ra kinh thành Thăng Long sau khi đánh đuổi được thế lực nhà Mạc. Tháng 4 cùng năm đó, vua Lê lên chính điện ban chiếu đại xá tù bình, giảm sưu thuế toàn quốc. Triều đình cho nhân dân khắp nơi mở hội ăn mừng vì đã thoát khỏi cảnh binh đao, loạn lạc. Hưởng ứng không khí chung của đất nước, chiều tối ngày 11.9.1593, dân làng Kim Thượng đem một con trâu trắng ra cửa đình làng để giết mổ làm lễ tế thần rồi chia thịt cho dân làng ăn liên hoan…

Những trai tráng to khỏe được làng cắt cử đang chuẩn bị công việc giết mổ thì bất ngờ con trâu lồng lên làm đứt chạc rồi chạy vụt biến mất. Cả làng nháo nhác đi tìm trâu, nhưng do trời tối nên không thấy. Sáng sớm 12.9, dân làng Châu Lỗ làm lễ tế thần ở khu đền đã rất ngạc nhiên khi thấy con trâu lạ lông màu trắng không biết từ đâu đến. Trâu nằm phục trên bãi cỏ trước cửa đền ven đê sông Cầu. Cũng sáng hôm ấy, dân Kim Thượng sau khi hỏi thăm tin tức ở các vùng lân cận đã biết trâu trắng chạy theo bờ sông Cà Lồ, rồi bơi vượt sông Cầu sang đền Châu Lỗ.

 

Cây đa cổ thụ có tuổi đời gần 500 năm chứng kiến mối tình 2 làng Kim-Châu. ẢNH: N.H
Cây đa cổ thụ có tuổi đời gần 500 năm chứng kiến mối tình 2 làng Kim-Châu. ẢNH: N.H


Người làng Kim Thượng tìm vào đền Châu Lỗ gặp các cụ cao niên xin chuộc trâu. Thấy vậy, các cụ bên Châu Lỗ đã mời khách trà nước rồi nói: “Người là vàng, của là ngãi, không may trâu đứt chạc chạy sang đây, dân chúng tôi giữ giúp, nay xin trả lại chứ đâu dám lấy tiền chuộc của các anh!”.

Sau khi cám ơn làng bạn, người Kim Thượng ra dắt trâu về. Nhưng không ngờ trâu trắng cứ nằm trơ trơ và ngóc đầu về phía đền Châu Lỗ. Mấy thanh niên xúm lại mà không tài nào kéo được trâu đi. Như một điềm trời báo, người Kim Thượng cử người mang đồ sang đền Châu Lỗ làm lễ tạ thánh thần. Khi lễ xong, quả nhiên dân Kim Thượng mới dắt được con trâu trắng về làng mình.

Sau sự kiện như một điềm lạ ấy, không chỉ dân làng Kim Thượng mà người Châu Lỗ cũng rất coi trọng con trâu trắng. Dân ở cả 2 làng đã gọi trâu trắng là Ngưu Tinh. Bởi, Ngưu Tinh có nghĩa là ngôi sao trên trời ứng vào con trâu trắng để tạo ra một sợi dân vô hình kết lên mối tình 2 làng Kim-Châu sau này.

Nói có sách, mách có chứng, chúng tôi sang (thôn) làng Châu Lỗ, tìm gặp ông Nguyễn Đình Ấn ( 82 tuổi). Ông Ấn hiện đang giữ nhiều tài liệu về tục kết chạ của làng mình. Ông đã cho chúng tôi xem 2 tập sách mang tên Lịch sử kết nghĩa Kim-Châu trong đó ghi lại rõ câu chuyện về Ngưu Tinh từ hơn 400 năm trước. Có sách để còn lưu truyền cho con cháu những thế hệ mai sau.


 

 Hai làng gặp nhau nhân dịp kỷ niệm 400 năm kết nghĩa ( 1594-1994) - ẢNH: T.L
Hai làng gặp nhau nhân dịp kỷ niệm 400 năm kết nghĩa ( 1594-1994) - ẢNH: T.L



Mùa xuân cùng đi phu, đến thu kết nghĩa

Sau sự kiện ngày 12.9.1593, ông Nguyễn Đình Ấn kể tiếp cho chúng tôi nghe câu chuyện kết chạ ( còn gọi kết nghĩa anh em) giữa 2 ngôi làng. Cơ duyên nối tiếp cơ duyên, vào mùa xuân năm Giáp Ngọ (1594) trai tráng hai làng cùng đi phu lên vùng đất Cao Lạng (Cao Bằng và Lạng Sơn- PV) rồi gặp nhau trong niềm hoan hỉ như những người bạn lâu ngày hội ngộ.


“Tất cả những sự kiện về Ngưu Tinh, rồi câu chuyện đi phu làm cùng một nơi, giúp đỡ nhau thân tình… đã dẫn tới quyết định 2 làng kết chạ với nhau”, ông Ấn cho biết.

Đến mùa thu, nhằm ngày 12.9.1594, đúng kỷ niệm một năm sau khi hai làng gặp nhau để xin-trả trâu trắng thì lễ kết chạ đã diễn ra. Các cụ cao niên và đại diện nhân dân đôi bên đã chọn đền làng Châu Lỗ sát sông Cầu làm lễ kết nghĩa huynh đệ với lời thề thủy chung, son sắt. Ông Ấn đã đọc mấy câu thơ về lễ kết chạ, kết nghĩa này cho chúng tôi nghe. Đây là những câu trong tập thơ 244 câu lục bát và song thất lục bát được lưu truyền nhiều thế hệ ở 2 làng Kim-Châu:

…Xưa kia ai biết ai đâu
Ngưu Tinh dắt mối tình đầu nên thân
Đi phu Cao Lạng mùa xuân
Đến thu kết nghĩa toàn dân lâu dài.
Tình huynh đệ, nghĩa thâm giao
Dưới dày có đất, trên cao có trời
Dẫu cho vật đổi sao dời
Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh…


Từ đó ngày 12.9 hằng năm được người Kim Thượng và Châu Lỗ gọi là ngày lệ làng. Vào dịp này hàng năm ở 2 làng thường diễn ra các hoạt động thể thao, văn hóa hết sức sôi nổi. Còn vào dịp mùa xuân đầu năm, hai làng lại làm lễ gặp mặt tại đền Châu Lỗ. Một số năm, vào dịp gặp mặt thì chuyện Ngưu Tinh kết mối tình làng còn được phát trên loa phóng thanh. Bạn Ngô Duy Cương ở Châu Lỗ cho biết, ngay từ lúc bé đã được nghe chuyện Ngưu Tinh từ cụ mình kể lại, rồi còn được nghe qua loa phát thanh nên 2.300 người làng Châu Lỗ hay gần 3.000 dân Kim Thượng ai cũng biết chuyện này.

 

 Hội phụ nữ cao tuổi 2 làng dâng hương nhân ngày gặp nhau mùa xuân - ẢNH: N.H
Hội phụ nữ cao tuổi 2 làng dâng hương nhân ngày gặp nhau mùa xuân - ẢNH: N.H


Thử hỏi một số học sinh vừa tan học đang đi về trên con đường đê, điều bất ngờ với chúng tôi là các em không chỉ biết, còn thuộc cả 8 câu thơ về tục kết nghĩa mà ông Ấn mới đọc.

Để minh chứng cho mối tình nồng ấm, cao đẹp giữa 2 ngôi làng Kim-Châu, ông Ấn đã kể ra hàng loạt câu chuyện, sự kiện ý nghĩa, tốt đẹp. Vào những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954), có lúc làng Kim Thượng bị chiếm đóng, còn Châu Lỗ vẫn thuộc vùng tự do. Trong hoàn cảnh éo le vậy, làng Châu Lỗ không sợ nguy hiểm mà vượt sông Cầu sang giúp Kim Thượng những việc chung, việc công.

 

Các cụ ông cao tuổi 2 làng làm lễ ở đình-đền Châu Lỗ ngày gặp mặt- ẢNH: N.H
Các cụ ông cao tuổi 2 làng làm lễ ở đình-đền Châu Lỗ ngày gặp mặt- ẢNH: N.H


Khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, vào năm 1957 khi Châu Lỗ sửa lại đình đền, Kim Thượng đã sai thợ ngõa (lợp nhà) và thợ nề (xây nhà) sang giúp không công, không đòi hỏi một thứ gì. Năm 1963 dân Châu Lỗ đắp đập chống lũ, người Kim Thượng lại sang giúp đỡ nhân lực, tiền của một cách chân tình, vô tư…

Năm 2006, làng Châu Lỗ lại sửa chữa đình, đền và cũng như những lần trước, dân Kim Thượng lại cho thợ sang làm giúp không công, rồi hỗ trợ gần 100 triệu đồng tiền mặt. Trong nhiều năm làng Kim Thượng bị lũ lụt, mất mùa thì dân Châu Lỗ đã mang lương thực, thực phẩm, con giống, cây giống sang giúp đỡ. Để cùng nhau phát triển kinh tế, nhiều hộ gia đình ở hai làng đã thường xuyên sang gặp gỡ, trao đổi để học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Từ mùa màng cấy lúa, hoa màu cho đến chăn nuôi, làm nghề, buôn bán…giữa 2 làng đều có sự hợp tác, giúp đỡ nhau vô tư, nhiệt tình.


Ông Ấn chốt lại rằng: “Tục kết chạ, kết nghĩa anh em giữa hai làng Kim-Châu qua cơ duyên trâu trắng là một nét đẹp văn hóa luôn được người dân kế thừa và phát huy. Nó trở thành biểu tượng trong tình bạn, tình anh em luôn biết sẻ chia, nhường nhịn, quý mến nhau”.

Theo Dương Hải-Nguyễn Hường (TNO)

 

Có thể bạn quan tâm

Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

(GLO)- 

Cảnh vật trên đỉnh Nghĩa Lĩnh cũ xưa như nghìn năm vẫn thế. Tác giả như lạc về nghìn xưa ấy và cảm nhận được bước luân chuyển vần vũ của thời gian. Vật đổi sao dời, chỉ có những buổi chiều nơi đây luôn mãi trong xanh…

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Từ giữa tháng 3.2024, dù chỉ mới hoạt động thử nghiệm, chưa hoàn thiện bàn giao, nhưng nhiều người vẫn chờ đợi suốt nhiều giờ để chờ xem nhạc nước tại quảng trường 29.3 (đường 2.9, Q.Hải Châu, TP.Đà Nẵng).
Thơ Nguyễn Tấn Hỷ: Hoàng hôn

Thơ Nguyễn Tấn Hỷ: Hoàng hôn

(GLO)- "Hoàng hôn" của nhà thơ Nguyễn Tấn Hỷ là tác phẩm nhiều cảm xúc trước bóng chiều hoàng hôn. Trong tia nắng le lói cuối ngày, những cánh chim mải miết tìm về tổ ấm, những đôi chân lam lũ mải miết về nhà...
Gương mặt thơ: Hoàng Vũ Thuật

Gương mặt thơ: Hoàng Vũ Thuật

(GLO)- Hoàng Vũ Thuật thuộc thế hệ nhà thơ đàn anh của tôi, cùng lứa với các tài hoa như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khắc Thạch, Thạch Quỳ... ở miền Trung. Dẫu lớn tuổi nhưng ông luôn có ý thức tìm tòi, cách tân thơ cả hình thức và nội dung.
Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

(GLO)- Nắng hòa cùng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thành những gam màu khác nhau. Trong bài thơ mới của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng, nắng được hóa thân thành "cô bé" với những tính cách nhí nhảnh, đáng yêu...
Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

(GLO)- Tôi quen và chơi với Nguyễn Ngọc Tư đã mấy chục năm và cũng hết sức bất ngờ khi mới đây chị công bố... thơ, mà tới 2 tập liên tiếp và bán tơi tới. Thì cả nước đều biết Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nổi tiếng, nhất là sau khi “Cánh đồng bất tận” xuất hiện.
Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

(GLO)- "Cỏ mây" của nhà thơ Lê Từ Hiển như một khúc tự tình của hoa dại, của mây trời, thỏa sức sống đời thảnh thơi nơi triền sông, cô độc trong sự ngọt ngào, hồn nhiên, ngất ngưởng...
Gương mặt thơ: Bùi Quang Thanh

Gương mặt thơ: Bùi Quang Thanh

(GLO)- Nhà thơ Bùi Quang Thanh quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, tuổi Canh Dần (1950). Năm 1971, ông là lính của Mặt trận Tây Nguyên, đã từng tham gia chiến dịch giải phóng Đăk Tô-Tân Cảnh 1972 và suýt nữa thì nằm lại giữa rừng “cánh Trung” vì sốt rét.