Vì sao Việt Nam phải vừa nhập, vừa xuất khẩu than?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Mỗi năm, ngành than được phép xuất khẩu 2 triệu tấn, tuy nhiên, lượng nhập khẩu về trong năm 2019, ước tính đạt 5 triệu tấn. Nguyên nhân là do than nhập khẩu chủ yếu phục vụ ngành luyện thép, trong khi nhu cầu trong nước là sản xuất nhiệt điện.
3 năm xuất khẩu than “ế ẩm”
Mới đây, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết, năm 2019 TKV được phép xuất khẩu 2 triệu tấn than. Tuy nhiên, khối lượng than xuất khẩu ước tính chỉ bằng 59% kế hoạch, khoảng 1,2 triệu tấn.
Ngoài ra, Tổng công ty Đông Bắc thông tin thêm, năm 2019, doanh nghiệp này được phép xuất khẩu 50 nghìn tấn, nhưng dự kiến chỉ bán được 10 nghìn tấn.
Đánh giá về nguyên nhân của sự “ế ẩm” của than xuất khẩu, các đơn vị trên cho hay, hiện nay, thị trường xuất khẩu than truyền thống của TKV và Tổng công ty Đông Bắc chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khu vực châu Âu với yêu cầu cao về chất lượng than và tiến độ giao hàng. 
Trung Quốc "khép cửa", các thị trường khác tìm được đối tác mới, than xuất khẩu Việt Nam "ế ẩm".
Đầu năm 2019, thời điểm than xuất khẩu của Việt Nam có sức hấp dẫn với các nhà sử dụng nước ngoài do giá than thế giới ở mức cao. Tuy nhiên, do chậm được đồng ý xuất khẩu than dẫn đến cảnh “ế ẩm”.
Cụ thể, đến tháng 5/2019 kế hoạch xuất khẩu than mới được thông qua, lúc này, các đối tác truyền thống (đặc biệt là Nhật Bản) đã tìm kiếm nguồn than thay thế và ký kết các hợp đồng mua bán than trong năm 2019 với các nhà cung cấp khác.
 “Đây cũng là thời điểm giá than thế giới có chiều hướng giảm nên việc tìm kiếm đối tác mới gặp nhiều khó khăn.” Đại diện TKV thông tin thêm.
Đặc biệt, 2019 là năm thứ 3 liên tiếp xuất khẩu không hết lượng 2 triệu tấn than được Chính phủ cho phép. Ngoài ra, ngay từ đầu năm, TKV cũng ước tính con số nhập khẩu than là khoảng 5 triệu tấn. Vậy vì sao lại có tình trạng “vừa bán, vừa mua” đối với ngành than như vậy?
Theo phân tích của Bộ Công Thương, năm 2017 và 2018, khối lượng than xuất khẩu của hai đơn vị trên là hơn 4 triệu tấn, bao gồm hơn 2 triệu tấn than cục, tham cám 1-2-3 cho thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước châu Âu.
Ngoài ra, có 2 triệu tấn than cám khu vực Vàng Danh - Uông Bí (là loại than có chất lượng bốc thấp, lưu huỳnh cao, nhu cầu sử dụng trong nước ít) cho thị trường Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc.
Ngoài ra cũng theo thông tin từ Bộ Công Thương, hiện nay, Trung Quốc áp dụng quy định về hàng rào chất lượng nghiêm ngặt đối với than nhập khẩu. Theo đó, các loại than nhập khẩu vào Trung Quốc trước khi pha trộn, sử dụng phải được giám định lại chất lượng theo hàng rào tiêu chuẩn các nguyên tố vi lượng như thủy ngân, arsen, clo, flo,... 
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, than antraxit của Việt Nam không thể đáp ứng được các tiêu chuẩn trên. Do đó, TKV đã phải liên hệ với đối tác ngoài Trung Quốc để xuất khẩu và pha trộn với các chủng loại than khác để tiêu thụ trong nước.
Hiện nay, than sản xuất trong nước chủ yếu phục vụ cho sản xuất điện, khối lượng than sản xuất trong nước cung cấp cho sản xuất điện chiếm 70-80% lượng tiêu thụ toàn ngành.
Ngoài ra, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2018, Việt Nam nhập khẩu tới 23,78 triệu tấn than, trong đó chủ yếu là than bitum và á bitum dùng cho sản xuất điện.
Nhập khẩu than còn tăng mạnh, ước tính lên 100 triệu tấn vào 2030
Theo đánh giá của giới chuyên gia, sau khi hàng loạt các nhà máy nhiệt điện than ào ạt ra đời như Mông Dương, Uông Bí, Cẩm Phả (Quảng Ninh), Duyên Hải (Trà Vinh),… hoạt động nhập khẩu than đá của Việt Nam tăng mạnh. 
Bên cạnh đó, việc nguồn than trong nước đang ngày một cạn kiệt khiến xu thế nhập khẩu than sẽ còn tăng nhanh trong thời gian tới.
Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 xét đến năm 2030 (Quy hoạch phát triển điện VII, theo Quyết định 1208/QĐ-TTg ngày 21/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ), để đáp ứng nhu cầu điện của đất nước, năm 2020, nước ta phải có tổng công suất các nhà máy điện đạt 75.000 MW, trong đó, các nhà máy nhiệt điện than chiếm 48% tổng công suất. 
Năm 2030, kế hoạch than dành cho nhiệt điện lên tới 131,1 triệu tấn, tuy nhiên, năng lực khai thác chỉ đạt khoảng hơn 50 triệu tấn.
Ngoài ra, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện phải đạt 146.800 MW và tỷ trọng của các nhà máy nhiệt điện than được nâng lên 51,6% với tổng công suất lên đến gần 76.000 MW.
Bên cạnh đó, theo quy hoạch ngành than Việt Nam đến năm 2020 triển vọng đến năm 2030 tại Quyết định 403/QĐ-TTg, nhu cầu than dành cho nhiệt điện là 64,1 triệu tấn vào năm 2020 và lên đến 131,1 triệu tấn vào năm 2030. 
Tuy nhiên, cũng theo quy hoạch trên, sản lượng khai thác than trong nước được tính toán chỉ đạt từ 47 đến 50 triệu tấn vào năm 2020 và 55 đến 57 triệu tấn vào năm 2030. Nhưng số lượng khai thác được không chỉ dùng cho nhiệt điện than mà còn phải dành cho nhiều lĩnh vực khác như luyện kim, xi măng, phân bón và hóa chất,,,. Riêng 4 nhóm đối tượng trên đã ước tính cần 25,5 triệu tấn than vào năm 2030.
Qua những con số “biết nói” có thể thấy, tổng nhu cầu sản lượng than cả nước vào năm 2030 là gần 157 triệu tấn, trong khi năng lực khai thác trong nước chỉ được tối đa 57 triệu tấn. Do đó, Việt Nam đứng trước việc phải nhập khẩu tới 100 triệu tấn than vào năm 2030.
Thanh Phong (Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm

Bộ Công thương thí điểm tính giá điện 2 thành phần, tiền điện ảnh hưởng ra sao?

Bộ Công thương thí điểm tính giá điện 2 thành phần, tiền điện ảnh hưởng ra sao?

Giá bán điện 2 thành phần có nhiều ưu thế vượt trội với mục tiêu tính đúng, tính đủ chi phí mà người tiêu dùng điện gây ra cho hệ thống. Bộ Công thương khẳng định, thí điểm cần thiết để đánh giá, tính toán được khoản tiền điện chênh lệch giữa biểu giá điện hiện hành và biểu giá điện 2 thành phần.