Ethanol Phú Thọ: Nhà thầu không đủ năng lực, gây thiệt hại 543 tỷ đồng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Sáng 8/3, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội mở lại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án Ethanol Phú Thọ.

 Bị cáo Đinh La Thăng khai báo trước Hội đồng xét xử. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Bị cáo Đinh La Thăng khai báo trước Hội đồng xét xử. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)


Sáng 8/3, Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã mở lại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án Nhà máy nhiên liệu sinh học (Ethanol) Phú Thọ, viết tắt là Dự án Ethanol Phú Thọ.

Trong vụ án này, tổng số có 12 bị cáo bị đưa ra xét xử, gồm: Đinh La Thăng, sinh năm 1960, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); Trịnh Xuân Thanh, sinh năm 1966, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC); Vũ Thanh Hà, sinh năm 1962, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học Dầu khí (PVB); Trần Thị Bình, sinh năm 1958, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN; Phạm Xuân Diệu, sinh năm 1960, nguyên Tổng Giám đốc PVC; Nguyễn Ngọc Dũng, sinh năm 1958, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC; Đỗ Văn Quang, sinh năm 1972, nguyên Trưởng ban Ban Kinh tế kế hoạch - sau là Ban Kinh tế đấu thầu (PVC); Nguyễn Xuân Thủy, sinh năm 1961, nguyên Phó Trưởng Phòng đầu tư dự án (PVB); Khương Anh Tuấn, sinh năm 1975, nguyên Phó trưởng Phòng Thương mại (PVB); Lê Thanh Thái, sinh năm 1960, nguyên Trưởng Phòng Kinh doanh (PVB); Hoàng Đình Tâm, sinh năm 1981, nguyên Kế toán trưởng PVB; Đỗ Văn Hồng, sinh năm 1967, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư và xây lắp Dầu khí Kinh Bắc (PVC Kinh Bắc).

Bị cáo Trịnh Xuân Thanh bị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố về 2 tội: “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” (theo quy định tại Điều 224, khoản 3-Bộ luật Hình sự năm 2015) và tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (theo quy định tại Điều 356, khoản 3-Bộ luật Hình sự năm 2015).

Bị cáo Đỗ Văn Hồng bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (theo quy định tại Điều 356, khoản 3-Bộ luật Hình sự năm 2015).

10 bị cáo còn lại bị Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” (theo quy định tại Điều 224, khoản 3-Bộ luật Hình sự năm 2015).

Trong số 12 bị cáo, có 9 bị cáo bị tạm giam, 3 bị cáo được tại ngoại, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Khoảng 30 luật sư đã có mặt tại phiên tòa, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho 12 bị cáo. Trong đó, bị cáo Đinh La Thăng có 3 luật sư bào chữa, bị cáo Trịnh Xuân Thanh có 4 luật sư bào chữa. Bị cáo có nhiều luật sư bào chữa nhất là Vũ Thanh Hà với tổng số 6 luật sư bào chữa. Bị cáo Đỗ Văn Hồng không mời luật sư bào chữa.

Ngoài ra tại phiên tòa còn có mặt 6 giám định viên, 14 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Đại diện PVB và PVC có mặt tại phiên tòa với tư cách là nguyên đơn dân sự. Riêng PVC trong vụ án này còn có tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Chỉ định trúng thầu trái quy định

Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, ngày 17/7/2007, Hội đồng quản trị PVN ra Nghị quyết giao cho Tổng Giám đốc PVN xây dựng đề án đầu tư xây dựng Nhà máy sản xuất Ethanol nhiên liệu ở khu vực phía Bắc. Thực hiện nghị quyết này, Công ty Cổ phần Hóa dầu và Nhiêu liệu sinh học Dầu khí (PVB) được thành lập để làm chủ đầu tư dự án xây dựng Nhà máy sản xuất Ethanol nhiên liệu khu vực phía Bắc (tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ - gọi tắt là Dự án Ethanol Phú Thọ).

Tháng 9/2008, PVB có quyết định phê duyệt hồ sơ mời sơ tuyển gói thầu TK05 theo phương thức “Chìa khóa trao tay” xây dựng Nhà máy sản xuất Ethanol nhiên liệu khu vực phía Bắc để sơ tuyển lựa chọn nhà thầu. Thời điểm đó, bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã ký văn bản gửi PVB đề nghị hạ một số tiêu chí đánh giá về năng lực kỹ thuật, năng lực tài chính, kinh nghiệm nhà thầu nhưng không được PVB chấp thuận. Tiếp đó PVC đã thành lập Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T để nộp hồ sơ dự tuyển gói thầu này.

Tại thời điểm đóng sơ tuyển, có 6 bộ hồ sơ của các nhà thầu tham gia ứng tuyển. Kết quả chấm sơ tuyển cả 6 nhà thầu đều chưa đạt đủ các tiêu chí. Trong đó, Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T chưa đạt các tiêu chí về năng lực kỹ thuật, năng lực tư vấn thiết kế, năng lực về xây dựng...

Mặc dù biết PVC chưa từng thực hiện dự án nào về lĩnh vực Ethanol, nhưng bị cáo Đinh La Thăng và Trần Thị Bình (khi đó là Phó Tổng Giám đốc PVN) đã chủ trì nhiều cuộc họp để định hướng, chỉ đạo PVB, PVC hoàn tất thủ tục chỉ định thầu và ký hợp đồng với Liên danh nhà thầu PVC/Alfa Laval/Delta-T.

Thực hiện chỉ đạo của bị cáo Đinh La Thăng, PVB đã không tổ chức đấu thầu theo kế hoạch mà lập hồ sơ để chỉ định thầu cho Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, các thành viên Tổ chuyên gia giúp việc đấu thầu và Tổ chuyên gia giúp việc thẩm định đấu thầu đều biết rõ các tiêu chí về năng lực, kinh nghiệm mà Liên danh nhà thầu PVC/Alfa Laval/Delta-T đã bị đánh giá không đạt.

 

Bị cáo Đinh La Thăng cùng đồng phạm tại phiên xét xử. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
Bị cáo Đinh La Thăng cùng đồng phạm tại phiên xét xử. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)


Nhưng với mục đích chỉ định thầu cho Liên doanh nhà thầu này theo chỉ đạo của bị cáo Đinh La Thăng, Vũ Thanh Hà đã định hướng, chỉ đạo các thành viên hai Tổ chuyên gia trên không đưa vào hồ sơ yêu cầu tiêu chí đánh giá về năng lực, kinh nghiệm đã được đánh giá không đạt trong giai đoạn sơ tuyển trước đó, nhằm chỉ định cho Liên danh nhà thầu này được trúng thầu, trái các quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện, do Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực nên Dự án Ethanol Phú Thọ liên tục bị chậm tiến độ. PVC sau đó cũng có báo cáo thừa nhận Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực để thực hiện dự án.

Tháng 3/2013, PVC đã đơn phương dừng thi công dự án và chưa có hạng mục nào hoàn thành. PVC đưa ra lý do việc dừng dự án vì đơn vị gặp nhiều khó khăn về tài chính, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm quản lý và kết nối các giao diện về công nghệ...

Cáo trạng xác định, hậu quả từ hành vi làm trái các quy định của các bị cáo trong vụ án đã gây ra thiệt hại cho PVB tổng số tiền hơn 543 tỷ đồng.

Sai phạm trong đầu tư mua đất tại Tam Đảo

Ngoài ra, lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Chủ tịch Hội đồng quản trị PVC có tỷ lệ góp vốn tại PVC Kinh Bắc, Trịnh Xuân Thanh đã bàn bạc với Đỗ Văn Hồng về việc đầu tư mua 3.400m2 đất tại thôn 1, thị trấn Tam Đảo (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc) của Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển Công nghệ Mefrimex bằng tiền tạm ứng cho thực hiện dự án của PVC. Bị cáo Trịnh Xuân Thanh chỉ đạo cán bộ dưới quyền tại PVC cho PVC Kinh Bắc tạm ứng trái quy định 25 tỷ đồng.

Nhằm hợp thức việc cho tạm ứng và sử dụng tiền tạm ứng trái quy định, Trịnh Xuân Thanh và Đỗ Văn Hồng bàn bạc, thống nhất làm các thủ tục để chuyển 21 tỷ đồng tạm ứng thành tiền góp vốn điều lệ của PVC tại PVC Kinh Bắc, trái quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Điều lệ tổ chức hoạt động của PVC, gây thiệt hại cho PVC hơn 13 tỷ đồng.

Với mục đích sở hữu 3.400m2 đất nêu trên, năm 2011, Trịnh Xuân Thanh thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn đầu tư Mai Phương và yêu cầu Đỗ Văn Hồng ký hợp đồng chuyển nhượng khu đất trên cho Công ty Mai Phương với giá 23,8 tỷ đồng, nhưng chỉ thanh toán 20,8 tỷ đồng, hưởng lợi 3 tỷ đồng.

Dự kiến, phiên tòa diễn ra trong 10 ngày.

 

Theo Kim Anh-Nguyễn Cúc (TTXVN/Vietnam+)

Có thể bạn quan tâm