Cây gì trong lòng sơn nhân?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Ai đó từ xa chợt đến đã làm người dưới xuôi hiểu nhầm kơ nia là cây quan trọng nhất với người Tây Nguyên khi đưa nó vào một bài hát. Người lữ khách kia đến và đi chớp nhoáng, còn bài hát thì phổ biến. Sự hiểu nhầm thì cứ lơ lửng mãi.

Thực ra cây kơ nia kia chả mấy người sơn nguyên để ý đến, chỉ là cây “thường”, bình thường, trong sử thi đã thế và trong hiện sinh xưa giờ cũng thế. Chung sống với làng buôn, lặn lội và chú tâm điều nghiên về cây rừng Tây Nguyên dưới góc độ văn hóa cũng như lâm học, tôi đã nhận ra điều xác thực mà tự mình cần phải giải mã rốt ráo, không để bất cứ sự hiểu nhầm nào lơ lửng mãi nữa…                 

Suốt 25 năm vào buôn và đi rừng, tôi cố để ý đến người, đến cây, đối thoại, chất vấn, nhận dạng, ghi ảnh, khảo tả, chia sẻ ở nhiều chiều, góc độ, gồm “không gian rừng” lẫn “không gian người”. Khi gặp bất cứ người bản địa nào, tôi vẫn chỉ hỏi mỗi một câu là: “Cây gì ở trong tâm hồn họ?”.

 

Tác giả dưới gốc cây M’nút trong rừng. Ảnh: N.H.T
Tác giả dưới gốc cây M’nút trong rừng. Ảnh: N.H.T

Cây “tình”

Như cái mùa khô gặp Y Vang vậy. Vang bảo, mùa nào cũng lên rừng hái M’nga (tiếng phổ thông gọi là phong lan rừng) về bán kiếm cơm áo. Loài cỏ trên cây bỗng trở thành hàng hóa. Những ngày trước, Vang hái M’nga ở rừng Buôn Ja Vầm. Sống bằng nghề hái M’nga, Vang cứ đi thế, từ buôn mình vào cánh rừng xa hơn như ở vùng Buôn Đôn này mới có nhiều M’nga. Để có M’nga, Vang trèo lên trên cây cổ thụ để gỡ, vì nó là loài thực vật nương sinh. Vang bảo, như mọi người bản địa, trong rừng, nhìn lá cây là anh biết thân cây gì đang thẳng lên trời kia. Cái lá cây dù tươi hay khô nó đều chứa “thông tin” thảo mộc.

Và Y Vang chỉ ra cây Ana Kpẽh (tiếng phổ thông gọi chệch thành căm xe), Ana K’chih (cà chít) là thứ cây ấm áp và gần gũi nhất với cộng đồng sơn nguyên của anh. Bao giờ làm nhà dài, nhà sàn họ cũng tìm thứ cây này về làm. Gỗ Ana Kpẽh, Ana K’chih không ngấm nước, chịu được ẩm lẫn nắng nóng, màu gỗ đẹp, không mối mọt. Sàn nhà thì làm bằng ván Ana K’lông, vì nó thơm, nhẹ và vân đẹp mềm dịu. Nếu không có Ana Kpẽh, Ana K’chih, thì chọn Ana Asan (tiếng phổ thông gọi là cây hương) thay để làm khung sườn, cột nhà. Với họ, Ana Kpẽh, Ana K’chih là cây rừng thân, vật thân, như máu thịt xuyên suốt. Và chiếc cầu thang nhà dài, lối lên nhà duy nhất, ngay giữa thế kỷ XXI này vẫn sừng sững nhờ làm bằng Ana K’chih. Đến những vườn hồ tiêu kia, các làng người ở Tây Nguyên còn lấy Ana K’chih làm giá thể cho hồ tiêu leo. Cây hồ tiêu phát triển quá, lan tràn khắp núi đồi, nhất là trong dân nhập cư đông đúc, làm dân “gốc rừng” hết nó để làm cái nhà dài.

Không riêng sắc dân Ê Đê, mà sắc dân Jrai, Bahnar, Sê Đăng, Rơ Ngao, Kho, M’nông cũng thế, vẫn chỉ gắn bó máu thịt với cây cà chít, căm xe, chẳng qua tên của nó được gọi khác đi thôi.

Phản xạ của họ trước rừng là chỉ “lẩy”, khai thác vài loại cây ấy mang về phục vụ không gian sống thôi, chứ không phải thấy cây gì to cũng đốn hạ, chặt hàng loạt hay khai thác trắng. Vì nên nhớ, đến thập niên 90 của thế kỷ trước, cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên vẫn không hề coi gỗ rừng là “hàng hóa”, không có nghề xẻ gỗ trên rừng và buôn bán gỗ. Và sống dưới ngọn núi, dải rừng, thung lũng nào đó là ở mãi quanh đấy, hoàn toàn không có chuyện “du canh du cư” như người ta hay gán một cách oan nghiệt và đau đớn cho họ (mà họ vẫn không hề lên tiếng), vì đặc điểm của họ là nhạy cảm, nặng tình và yếu đuối, không thể xa rời rừng quê, núi quê. Nên những thứ cây mà dân nhập cư cho là cao giá, là gỗ quý như: cẩm lai, lim, gõ, pơmu, huỳnh đàn, dổi, bằng lăng… họ cũng không để ý, dù biết hết chúng ở chỗ nào trên rừng kia, tên cây, hình thù thân, lá, đặc điểm sinh trưởng. Ngay thứ cây có giá trị bạc tiền cao là K’Năng Jieng (tiếng phổ thông gọi là trầm hương) họ cũng không hề đụng đến, mà toàn dân dưới xuôi và phương xa ngược núi lùng sục, tung hoành khai thác, kể từ thời người Champa, Pháp rồi đến chúng ta tiếp tục từ đấy về sau. Họ không có lòng tham với rừng, không vơ vét, tận thu hết sản vật trong rừng kia, mà chỉ dùng những gì mình gần gũi, yêu, và dùng đủ cần, như lấy cây về làm xong căn nhà thôi, mà không dự trữ, và trục lợi (bán) Họ cũng chỉ “lẩy” từ rừng ra đủ một mảnh rẫy để trồng đủ lương thực. Hai ba mảnh rẫy nhỏ xoay quần để làm trong chu kỳ 3 năm luân phiên, để đất được nghỉ ngơi, tái tạo dưỡng chất.

Bình thường, giản dị còn như cây Bơlơng. Cây Bơlơng (tiếng K’Ho) là biểu hiện của niềm vui. Vì nó “vui” nên người ta thường trồng nó trong làng, đốn nó về dựng làm cây nêu khi có hội hè. Và cũng vì nó vui nên trồng nó ở khu nhà mồ để tiễn người thân “ra đi” thật nhẹ êm.

Cây “linh”                             

Dĩ nhiên với người sơn nguyên, rừng là cõi thiêng. Nhưng trong cái thiêng bao trùm bao giờ cũng có cái thiêng cụ thể. Vậy cây gì là thiêng nhất với cộng đồng sơn nguyên? Rất nhiều người đều nói ngay là cây K’tơng. Họ rằng, cây thiêng là cây tụ nhiều linh hồn, tinh túy rừng núi, chứa những điều tốt lành của sơn nguyên-sức mạnh huyền bí. K’tơng tốt bụng và thiêng vì nó che chở nguồn nước, mà nguồn nước là khởi đầu sự sống. Chỗ nào có K’tơng là chỗ đó có mát lành, cộng đồng sống được.

Cây thiêng tiếp nữa với họ là Ana M’nút. Cây này thiêng cũng vì nó tạo ra được nguồn nước. Phát rẫy thấy cây M’nút thì chừa ra. Bến nước có cây này hiện diện thì không được tắm vào 12 giờ trưa và cần gì cũng không được bước xuống đó lúc 12 giờ đêm. Giờ đó cây nghỉ ngơi, tái tạo “sức khỏe”. Và cây thiêng dạng này nữa là Ana K’djar-cây đa theo cách gọi của người Kinh. Ngay cả Y Phôn-người viết những bài hát sâu nặng nhất về cây cỏ, núi đồi Tây Nguyên cũng từng bảo tôi Ana K’djar là điểm tựa, che chở cho làng, là cây của muôn cây. Làng nào dựng lập ở chỗ thiếu nó thì chơi vơi lắm. Bây giờ đã có y học hiện đại, đau ốm đều đưa đi bệnh viện, nhưng cùng lúc cũng ra cúng nó mới yên tâm, vì cuộc sống con người do trời đất nặn ra, mà Ana K’djar là hiện thân cho cao thiêng trời đất.

Cả 3 cây trên con người khi đến gần nó đều không được nói bậy chứ đừng nói chơi trèo hay đụng chạm cái gì vào. Ngay con thú cho thịt ngon nhất nhưng đã đậu hoặc đứng dưới bóng của nó thì con người cũng không được săn. Nó được quyền tồn tại miên viễn, cứ đứng đó, sống chung với con người; nó chỉ tự đổ, vì nguyên nhân gì đó từ thiên nhiên, chứ con người không được làm nó đổ. Tôi lật sử thi ra xem thì nó là thứ cây được nhắc đến nhiều nhất trong Khan, Ót Nrông Tây Nguyên.

Nhưng cái cây cao thiêng bao trùm chứa cả điều thiện lành lẫn xấu ác lại là cây T’lôn. Nó bí ẩn, hơn cả những loài thú tinh khôn và hiếm nhất. Vì hiếm người nhìn thấy được nó. Có người từ lúc sinh ra đến lúc tàn đời mà đi rừng vẫn chưa từng gặp. Đại ngàn bao la, nhưng chỗ nào có cây T’lôn là thông tin này truyền đi khắp, bon, buôn, plei này qua bon, buôn, plei kia, từ nơi cư trú của người M’nông sang nơi của người Ê Đê, Jrai, Bahnar, Sê Đăng... Nếu ai gặp thấy là gặp thấy tình cờ, chứ không được rủ nhau đi nhìn. Và cây thiêng cao to khổng lồ không gần gũi với con người, chứa cả xấu tốt-tức chứa cả ma quỷ lẫn thánh thần-nữa là Ana Săr Chinpí. Cây này tán rộng hàng chục người nối tay chưa hết và gốc có khi cả chục thước. Những người trẻ giờ gần như không còn hay biết đến nó nữa. Những người lớn tuổi thì từng nghe nói, có người thấy được nó ở tận rừng… Campuchia. Cây này gỗ có màu đỏ đẹp nồng nàn nhất trong các loài cây thịt thân màu đỏ, nhưng không ai dám đụng vào. Bởi hình dáng nó lạ quá. Nó lạ thì kiêng nể vậy. Đụng vô là “chết”, không tai vạ này cũng tai vạ khác, vì có Yàng hoặc ma quỷ trong đó. Vậy là cây ma quỷ nhiều cũng tránh, mà thần thánh nhiều cũng kiêng dè. Kiêng dè là sống dưới nó, còn tránh là sợ hãi, cách ly. Nhờ biết “sợ” mà thương yêu rừng núi nên rừng còn. Hết ngưỡng vọng và hết “sợ” rừng ở chỗ nào là chỗ đó hết rừng.

Nhìn lại mà xem thế có đúng không nào.

Mẹ rừng  

Theo phong tục, khi hạ một cây về làm nhà, đẽo tượng nhà mồ hay làm cây nêu cho lễ hội làng… người Tây Nguyên đều tổ chức lễ cúng thần cây, thần rừng, đều làm lễ “xin” trời đất cho phép. Họ sống nương tựa, chan hòa và có đạo với thiên nhiên. Ý thức “Mẫu thượng ngàn” (Mẹ rừng đầu non) là thật, đạo Mẫu là có thật, dù họ không cần đưa thành khái niệm, không thuyết giảng và không biết UNESCO đã phong Đạo Mẫu-tục Thờ Mẫu của người Kinh-là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. UNESCO hẳn là không cổ hủ, lạc thời khi vinh danh Đạo Mẫu của người Kinh. Họ chỉ cần tự mình tôn trọng thiên nhiên, cho chính mình, biết ơn và thành tâm trước rừng. Riêng với dân nhập cư đến miền thượng thì  tôi có biết, khỏi nói rồi, họ có chiêm bái hay kiêng sợ gì đâu; coi mọi cây, con đều là “con tép”, là của cải, bạc tiền giữa trời mà không có khóa. Nên chỉ khi lũ lụt đổ xuống, thiên tai ập về xuôi, họ chơi vơi, họ nhìn nhau, họ kêu ca, họ than khóc và họ chửi rủa vào những nguyên do. Vậy thì đâu nhân bản hơn, đâu nhìn xa hơn?

 

“Đi giữa rừng nguyên sinh, nghe dậy mùi thảo mộc. Êm ả đó, nhưng mà cứ hồi hộp. Thứ hồi hộp vô định, rất cụ thể mà rất không cụ thể, vu vơ. Đi trong nguyên sinh nó không có chỗ cho nỗi buồn, không có thời gian để buồn. Giữa nguyên sinh, con người cảm nhận được sự nhỏ bé, lẻ loi của mình. Dưới nguyên sinh tôi nhận ra sự hữu hạn của bất cứ loài động vật nào, trong đó có loài người. Ở trong hoang dã giống loài tôi mới biết sợ các loài khác, kể cả thực vật. Tôi nghe được sự rộn rã của muôn loài. Trước hoang dã con người mới ngây thơ được, mà ngây thơ, sự thiện lành ấy, là bản gốc của con người”.

Có một chiều của văn minh mà loài người đang nghĩ mình tiên tiến nhưng học hoài không tới cõi đó hoặc muốn quay về là bản thể thiên nhiên. Ứng xử với thiên nhiên tử tế bỗng một ngày trở thành thứ xa xỉ, khó nhất.

Những năm gần đây, nơi kia chỗ nọ ở dưới xuôi, người ta bỗng vinh danh những cây nguyên sinh lẻ loi còn trơ trọi giữa cộng đồng thành “Cây di sản”.

Tôi cũng không muốn đo chiều dài của văn minh trong các xứ sở, trong các cộng đồng người xa gần, trong các thời đại của nhân loại. Tôi chỉ biết cái tình của người sơn nguyên với Mẫu Thượng Ngàn nó lê thê, lê thê từ trong sử thi ra bên ngoài, là từ xa xưa tới buổi hiện đại đây. Nó lắng, nó tĩnh tại, nó bàng bạc, nó minh tri ngay giữa dòng đời hối hả, xô bồ. Nó hiện sinh và thực tiễn chứ không mơ màng như tôi với những cuộc về rừng ngơ ngác.

Bút ký: Nguyễn Hàng Tình

Có thể bạn quan tâm