Bắp nếp của mẹ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Một buổi sáng bình yên đến lạ giữa mùa mưa, tôi bị đánh thức bởi mùi thơm ngòn ngọt quen thuộc, mùi khói bếp cay nồng thoang thoảng bay vào phòng.
Nhớ sao những sáng trời buốt sương, gió đầu mùa mưa cứ rít lên từng hồi, tôi ngồi co ro bên bếp lửa, vừa sưởi tay cho ấm vừa ăn bắp luộc. Ngày ấy, bữa sáng của cả nhà triền miên là món bắp, nó ám ảnh đến mức tôi đã gọi nó là “món bắp nếp huyền thoại”.
Bắp nếp nù quả căng tròn mây mẩy, hạt xếp khít nhau, thẳng đều tăm tắp, vừa dẻo lại vừa ngọt. Lúc còn non có thể bào nhỏ rồi xay, vắt lấy sữa đun sôi lên uống. Lúc chững hạt hơn chút thì xào với mỡ hành và tép. Đơn giản hơn thì luộc ăn ngay lúc nóng rồi lấy nước uống. Bắp nếp luộc chín tới vừa dẻo dính lại vừa thơm như cơm nếp đầu mùa, cái vị nước luộc ngọt thanh mà dịu mát. Có lẽ đó là lý do mà mẹ chọn bắp làm bữa sáng thường ngày cho cả nhà. Là tôi cố nghĩ như thế!
Trong ký ức của những ngày khốn khó theo cha mẹ vào đất Tây Nguyên lập nghiệp, tôi vẫn nhớ mình đã thèm khát được ăn một ổ bánh mì kẹp thịt mỗi sáng như thế nào. Điều ấy tôi chẳng bao giờ dám nói ra hay đòi hỏi, cảm giác mỗi bữa sáng cứ nghèn nghẹn trong cuống họng mà vẫn giả vờ ăn ngon lành để đi học. Có lẽ tôi là đứa trẻ hiểu chuyện từ ngày ấy.

Ảnh minh họa (nguồn: INTERNET)
Ảnh minh họa (nguồn: INTERNET)
Một hôm, tôi thấy mình chẳng còn hứng thú với cái thơm ngọt, cái vị dẻo được kết tinh trong từng hạt bắp. Tôi chỉ thấy mùi bắp luộc và mùi khói bếp làm lồng ngực mình tưng tức, ngột ngạt. Tôi hỏi mẹ: “Ngày ấy, sao bố mẹ bỏ làm cán bộ để vào Tây Nguyên?”. Mẹ tôi thẫn thờ đáp: “Ui chao, nói cán bộ rứa chứ ngoài quê mình đất thì cằn, thời tiết thì khắc nghiệt, cực lắm con ơi”. Ánh mắt mẹ nhìn vào không trung, nơi sương trắng mờ mịt và khói bếp tan lẫn vào nhau. Cái nhìn ấy xa xăm lắm, đến nỗi bây giờ khi đã ba mươi tuổi rồi tôi vẫn nhớ.
Tôi đáp lời mẹ kèm chút giận dỗi: “Dù sao con nghĩ làm cán bộ vẫn hơn làm nông chứ mẹ”. Giọng mẹ bỗng trầm lại, tôi cảm giác như làn sương dày đặc ngoài kia đang bóp nghẹt lấy từng lời mẹ nói: “Cái ngày bỏ quê hương mà ra đi, đau như cắt ruột, xé gan. Bà con chòm xóm, họ hàng can ngăn, nói Tây Nguyên là chốn rừng thiêng nước độc, đi là bỏ quê cha đất tổ. Hồi nớ vô đây, thấy toàn rừng là rừng, chim kêu vượn hú, tay thì cuốc đất mà nước mắt rớt thấm theo từng nhát cuốc. Cũng không nghĩ là có thể ở đây mà lập nghiệp được”.
Tôi hỏi thêm câu cuối: “Mà sao lại ở đến giờ hả mẹ?”. “Đó là nhờ mùa bắp đầu tiên. Từ nhỏ đến lớn mẹ chưa khi mô thấy cây bắp có được quả to mà hạt đầy như rứa nên bàn với cha mi là đất ni sống được”-mẹ hồi nhớ.
Tôi im lặng xách cặp đi học. Từ ngày ấy, mỗi sáng thức dậy, tôi nhủ lòng mình phải biết ơn vì vẫn có cái ăn, phải nỗ lực học thật giỏi. Câu chuyện vu vơ trong buổi sáng mù mịt sương ấy mãi khắc sâu trong ký ức tôi, đồng hành cùng tôi trong suốt những ngày tháng đi học, đi làm xa nhà.
Mãi đến tận bây giờ, khi trưởng thành, tôi vẫn ngẫm ngợi câu chuyện về hạt bắp đã nảy mầm xanh, tạo quả ngọt trong từng lớp đất bazan thấm đẫm mồ hôi của bậc sinh thành. Đó là sự tưởng thưởng xứng đáng cho hành trình vượt thoát khỏi những lời đàm tiếu, vượt lên nỗi đau giằng xé của những người con tha hương với khát vọng đổi thay. Mỗi khi mệt mỏi trước những áp lực, tôi lại nghĩ về câu chuyện ấy, tự nhủ lòng mình phải cố gắng thật nhiều.
Tôi ra vườn bẻ thêm mấy quả bắp non còn ưng ức sữa để làm vài món cho bữa trưa sum họp gia đình. Những quả bắp non căng tròn mây mẩy. Từng đường dao cắt đến đâu là dòng sữa bắp tứa ra thơm nức đến đó, như dòng sữa trắng ngọt lành mẹ nuôi tôi khôn lớn. Tôi háo hức vào bếp nấu ăn, lòng đầy khấp khởi, tự hào như khi tôi khai lý lịch lúc đi làm. Tôi đã đặt bút viết vào mục nghề nghiệp bố mẹ hai chữ “làm nông” bằng tất cả tình yêu và sự kính trọng.
Những món bắp sau này tôi nấu chẳng bao giờ được như vị bắp mẹ luộc. Bởi vị bắp ấy không chỉ dẻo ngọt, đậm đà mà còn chất chứa cả giọt nước mắt thương nhớ của mẹ những ngày đằng đẵng xa quê, xa ngoại. Vị bắp ấy còn thoang thoảng mùi ký ức của cô bé năm xưa.
TRÚC PHÙNG

Có thể bạn quan tâm

Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

Thơ Đào An Duyên: Ghi ở Đền Hùng

(GLO)- 

Cảnh vật trên đỉnh Nghĩa Lĩnh cũ xưa như nghìn năm vẫn thế. Tác giả như lạc về nghìn xưa ấy và cảm nhận được bước luân chuyển vần vũ của thời gian. Vật đổi sao dời, chỉ có những buổi chiều nơi đây luôn mãi trong xanh…

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Thiết chế văn hóa cộng đồng

Từ giữa tháng 3.2024, dù chỉ mới hoạt động thử nghiệm, chưa hoàn thiện bàn giao, nhưng nhiều người vẫn chờ đợi suốt nhiều giờ để chờ xem nhạc nước tại quảng trường 29.3 (đường 2.9, Q.Hải Châu, TP.Đà Nẵng).
Thơ Nguyễn Tấn Hỷ: Hoàng hôn

Thơ Nguyễn Tấn Hỷ: Hoàng hôn

(GLO)- "Hoàng hôn" của nhà thơ Nguyễn Tấn Hỷ là tác phẩm nhiều cảm xúc trước bóng chiều hoàng hôn. Trong tia nắng le lói cuối ngày, những cánh chim mải miết tìm về tổ ấm, những đôi chân lam lũ mải miết về nhà...
Gương mặt thơ: Hoàng Vũ Thuật

Gương mặt thơ: Hoàng Vũ Thuật

(GLO)- Hoàng Vũ Thuật thuộc thế hệ nhà thơ đàn anh của tôi, cùng lứa với các tài hoa như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Khắc Thạch, Thạch Quỳ... ở miền Trung. Dẫu lớn tuổi nhưng ông luôn có ý thức tìm tòi, cách tân thơ cả hình thức và nội dung.
Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Nắng

(GLO)- Nắng hòa cùng bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thành những gam màu khác nhau. Trong bài thơ mới của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng, nắng được hóa thân thành "cô bé" với những tính cách nhí nhảnh, đáng yêu...
Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

Gương mặt thơ: Nguyễn Ngọc Tư

(GLO)- Tôi quen và chơi với Nguyễn Ngọc Tư đã mấy chục năm và cũng hết sức bất ngờ khi mới đây chị công bố... thơ, mà tới 2 tập liên tiếp và bán tơi tới. Thì cả nước đều biết Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn nổi tiếng, nhất là sau khi “Cánh đồng bất tận” xuất hiện.
Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

Thơ Lê Từ Hiển: Cỏ mây

(GLO)- "Cỏ mây" của nhà thơ Lê Từ Hiển như một khúc tự tình của hoa dại, của mây trời, thỏa sức sống đời thảnh thơi nơi triền sông, cô độc trong sự ngọt ngào, hồn nhiên, ngất ngưởng...
Gương mặt thơ: Bùi Quang Thanh

Gương mặt thơ: Bùi Quang Thanh

(GLO)- Nhà thơ Bùi Quang Thanh quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, tuổi Canh Dần (1950). Năm 1971, ông là lính của Mặt trận Tây Nguyên, đã từng tham gia chiến dịch giải phóng Đăk Tô-Tân Cảnh 1972 và suýt nữa thì nằm lại giữa rừng “cánh Trung” vì sốt rét.