Chiêng quý ở Ia O

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trong khi nhiều ngôi làng lâm vào tình trạng “chảy máu” cồng chiêng thì hàng trăm chiếc chiêng quý vẫn đang được người dân xã Ia O (huyện Ia Grai) truyền đời và cất giữ như báu vật.
“Báu vật” cồng chiêng
Theo chân anh Rơ Mah Hyui-cán bộ văn hóa xã Ia O, chúng tôi đến thăm ông Rơ Châm Lin-Bí thư chi bộ kiêm Trưởng thôn Mít Jép. Ngôi nhà sàn bằng gỗ khang trang, rộng rãi của ông nằm nép dưới tán cây xanh mát. Vì có hẹn trước nên khi chúng tôi đến, ông Lin đã pha sẵn một ấm nước ngồi đợi. Căn phòng cất giữ chiêng quý cũng được ông mở khóa, lau chùi sạch sẽ.
Dẫn chúng tôi vào tham quan căn phòng, ông Lin cẩn thận đỡ từng bộ chiêng xuống. Những bộ chiêng được bao bọc cẩn thận trong một lớp túi mây tre đan chắc chắn, có lót vải và xếp ngay ngắn trên một chiếc kệ gỗ sát tường. Hiện ông Lin có khoảng 40 chiếc cồng chiêng lớn nhỏ. Sau một hồi lựa chọn, ông đem ra cho chúng tôi xem 2 chiếc chiêng Pat. Đây là những chiếc chiêng giá trị nhất trong “gia tài” của ông. Ông chia sẻ: “Mỗi chiếc bây giờ trị giá khoảng 300-400 triệu đồng. Có nhiều người hỏi mua lắm nhưng tôi không bán đâu. Năm 2005, tôi mua nó đã 50 triệu đồng rồi. Chiêng Pat bây giờ hiếm lắm, không phải ai cũng có được”. Nói rồi, ông Lin giải thích cặn kẽ cho chúng tôi hiểu tại sao loại chiêng này lại quý đến vậy: Khác với chiêng Lào, chiêng “honh”-chiêng phổ thông, chiêng Pat hoàn toàn được đúc bằng đồng. Viền của chiêng được gò công phu, dày dặn, mép tròn chứ không cạnh sắc. Trên núm có một đường dập trơn bắt ngang, phải quan sát kỹ hoặc sờ bằng tay mới biết được. Lòng chiêng được chia thành 3 vòng rõ rệt. Trong đó, vòng gần với phần núm có nhiều lỗ chấm nhỏ, vòng tiếp theo trơn mịn, vòng cuối cùng có những đường vân đồng nhỏ li ti nổi. Những đường vân hay nét chấm có đều đặn, đẹp mắt hay không sẽ quyết định giá trị của một chiếc chiêng Pat. 
Ông Rơ Châm Lin bên chiếc chiêng Pat trị giá khoảng 300-400 triệu đồng. Ảnh: P.L
Ông Rơ Châm Lin bên chiếc chiêng Pat trị giá khoảng 300-400 triệu đồng. Ảnh: P.L
Đặc biệt, không giống các loại chiêng khác, chiêng Pat không bao giờ được chỉnh âm bởi bản thân âm thanh của nó đã rất đặc biệt. Ông Lin lấy chiếc dùi gõ vào chiếc chiêng thì lập tức âm thanh trầm ấm lan xa, vang vọng. “Chiêng Pat thường giữ vị trí chủ đạo, đi đầu trong dàn cồng chiêng. Âm thanh của nó là chuẩn mực cho các chiêng khác “đi” theo. Chiêng Pat là dòng chiêng cổ nên còn dùng để phục vụ trong các lễ cúng truyền thống”-ông Lin cho hay. Việc chăm sóc chiêng quý cũng khá cầu kỳ. Anh Hyui ngồi cạnh bên nói thêm: “Ngày xưa, ông bà thường lấy cây mắt mèo ngâm rồi lau chiêng. Càng lau chiêng càng lên màu đen bóng rất đẹp”.
Gia đình ông Rơ Châm Luyên (làng O) cũng sở hữu 4 bộ chiêng, trong đó có 2 chiếc chiêng Pat. 2 chiếc chiêng đã được truyền lại đến 4 đời nên ông Luyên coi đó như vật báu, không phải ai cũng được nhìn ngắm và tự tiện đem ra sử dụng. “Chiêng này bây giờ quý lắm, ít người có. Của ông bà để lại nên mình phải gìn giữ cho con cháu đời sau nữa”-ông Luyên cho hay.
Bảo tồn chiêng quý
Vì nhiều lý do, đặc biệt là vì điều kiện kinh tế, bà con tại nhiều ngôi làng không giữ lại cồng chiêng dù ông bà xưa đã phải đổi nhiều trâu bò mới có được. Thế nhưng, xã Ia O vẫn làm tốt công tác bảo tồn. Người dân nơi này vẫn coi từng chiếc chiêng như báu vật, là tài sản không thể thiếu trong nhà.
Theo thống kê vào năm 2018, xã Ia O còn lưu giữ cồng chiêng nhiều nhất huyện Ia Grai với hơn 500 bộ. Anh Hyui cho hay: “Ở đây, bà con bảo quản chiêng rất tốt. Trong hơn 500 bộ chiêng mà họ đang lưu giữ thì có khoảng 250 chiếc chiêng quý, thường là chiêng Pat, chiêng Pom. Mỗi nhà thường cất chiêng trong một phòng riêng, khóa kỹ, nếu không phải người trong làng hay người quen thì tuyệt đối không bao giờ được xem. Bây giờ, nhiều gia đình khá giả trong làng vẫn tìm mua thêm chiêng để cất giữ”. 
Chiêng Pat là loại chiêng quý, giá trị nhất trong các loại chiêng. Ảnh: P.L
Chiêng Pat là loại chiêng quý, giá trị nhất trong các loại chiêng. Ảnh: P.L
Bên cạnh đó, ngành văn hóa cũng tích cực tuyên truyền, vận động và khuyến khích bà con gìn giữ cồng chiêng. Các làng duy trì thường xuyên và sử dụng cồng chiêng trong những lễ hội quan trọng, dịp liên hoan, giao lưu văn hóa nghệ thuật. Vì vậy, cồng chiêng luôn có không gian để sống, để lan tỏa. Anh Hyui cho biết: “Thời gian tới, thực hiện chỉ đạo của Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch và UBND huyện Ia Grai, chúng tôi tiếp tục rà soát, kiểm kê số lượng cồng chiêng, phân loại chi tiết để nắm rõ và có kế hoạch quản lý hiệu quả hơn, góp phần gìn giữ và bảo tồn giá trị di sản văn hóa độc đáo này”.
PHƯƠNG LINH

Có thể bạn quan tâm

Bữa cơm cộng cảm

Bữa cơm cộng cảm

(GLO)- Bữa cơm cộng cảm thể hiện sự cảm thông của người Jrai trước biến cố xảy ra trong một gia đình nào đó. Điều đó xác nhận mối liên hệ giữa các thành viên cùng với sự thống nhất ý chí của cộng đồng.
Cấp phép khai quật khảo cổ tại di tích An Phú

Cấp phép khai quật khảo cổ tại di tích An Phú

(GLO)- Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 580/QĐ-BVHTTDL cho phép Bảo tàng tỉnh Gia Lai phối hợp với Trung tâm Khảo cổ học (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) thăm dò, khai quật khảo cổ tại di tích An Phú (thôn 4, xã An Phú, TP. Pleiku).

Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

(GLO)- Từ trước đến nay, địa danh Pleiku được cho là xuất phát từ Plơi Aku trong tiếng Jrai. Plơi (Plei) là làng, Aku (Ku) là cái đuôi. Plơi Aku là làng đuôi, sau đó biến đổi thành Pleiku. Dân gian có 2 truyền thuyết về địa danh Pleiku.
Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Để hiểu rõ hơn về loại trang phục độc đáo này, chúng tôi tìm đến nhà nghệ nhân ưu tú Y Der (61 tuổi, ở thôn Kon Sơ Tiu, xã Ngọk Réo, huyện Đăk Hà, Kon Tum)-một trong số ít những người ở xã Ngọk Réo còn biết làm trang phục từ vỏ cây.
Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

(GLO)- Tối 7-3, UBND xã Chư Á (TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ xã, Đoàn thanh niên xã tổ chức đêm hội cồng chiêng, ra mắt câu lạc bộ “Cồng chiêng, nhạc cụ truyền thống dân tộc nữ làng Chuêt Ngol”.