Thầy giáo làng tìm di chỉ cổ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong trưa tháng 5, giữa nắng nóng cùng gió Lào hầm hập, thầy giáo già Lê Quốc Tường kể cho tôi nghe về những tìm tòi, phát hiện của ông qua 35 năm sưu tầm hiện vật đồ đá mới ở xã Phú Định, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

 Thầy Tường và chiếc rìu đá sưu tầm ở xã Phú Định
Thầy Tường và chiếc rìu đá sưu tầm ở xã Phú Định



Những sưu tầm của người thầy giáo làng có giá trị lớn về mặt học thuật cũng như bổ sung một địa chỉ khảo cổ mới đáng được chú ý trên bản đồ khảo cổ Việt Nam.

Truyền đam mê sử đến học trò

Lên Phú Định, xã kinh tế mới miền núi huyện Bố Trạch, hỏi nhà thầy Tường ở đâu, người làng chỉ rất nhiệt tình, không ít người khoe từng là học trò của thầy. Thầy Tường dạy môn Lịch sử nên hay sưu tầm dụng cụ bằng đá mà con người xưa dùng làm vật chặt cây, chiến đấu dã thú… Người dân gọi thầy là “thầy Tường đồ đá”.

Cô nhân viên Phòng Văn hóa xã hội của xã Phú Định tên Lê Thị Lưu Luyến nói: “Em là một trong số hàng ngàn học trò của thầy Tường. Thầy dạy môn sử sống động và hấp dẫn bởi cách giảng dạy trực quan với đạo cụ bằng đá tinh xảo”. Luyến đưa tôi đến căn nhà nép mình dưới vườn cây trên ngọn đồi nhỏ. Thầy Tường đã về hưu được 3 năm nhưng vẫn đam mê những mảnh rìu, mảnh tước… bằng đá.

“Đó là mùa hè 1985, Phú Định đường sá xa cách, học trò của tôi bị ốm, tôi cuốc bộ chân đất đến thăm. Hồi đó, hệ thống y tế không phát triển, trò sốt ở nhà, người nhà lấy một mảnh đá mài thành bột cho con uống. Vị phụ huynh ấy giải thích là những mảnh đá đó được cha ông truyền lại rằng có linh khí đất trời tự nhiên. Sốt uống vào sẽ lành. Trò uống 3 hôm thì lành. Tôi tò mò vì sao mảnh đá lại có công dụng vậy, liền xin về xem xét. Với phương pháp luận của người học sử, tôi nhận thấy, mảnh đá ấy là một chiếc rìu cách tuổi đời tôi ước đến 12.000 năm... Đấy là một phát hiện tình cờ nhưng đã “đóng đinh” vùng đất cổ Phú Định ngày xưa từ thời kỳ đồ đá trước Công nguyên. Cái này tôi tự nghiên cứu bằng tài liệu đọc được và từ các hình ảnh đối chứng. Tôi nói với vợ tôi, cũng là một giáo viên trường làng rằng, Phú Định đã trở thành một vùng đất chứa đựng nhiều giá trị lịch sử cổ học và cần một cuộc khảo cổ tầm cỡ”, thầy Tường kể.

Xác định đấy là một di chỉ như Bàu Tró (Đồng Hới), Cồn Nền (Quảng Trạch), hay như các di chỉ quan trọng khác, thầy Tường đã truyền cảm hứng khám phá lịch sử cho các lớp học trò từ lớp 6 đến lớp 9 của mình. “Tôi đã phát động 2 phong trào: Chúng em làm khảo cổ và Nhân dân làm khảo cổ. Từ đó, hơn 100 hiện vật là rìu đá, mảnh tước, cuốc đá… được học trò, người dân tìm thấy. Với tôi, vui nhất là học trò đã hào hứng học môn Lịch sử. Khi các em đi chăn trâu, cắt cỏ đều biết tranh thủ tìm kiếm hiện vật bằng đá để cùng nghiên cứu, học tập và hiểu hơn về lịch sử hình thành từ buổi sơ khai của loài người ở giai đoạn thời kỳ đồ đá mới”, thầy Tường tâm sự.

Cô gái Lê Thị Lưu Luyến, người được thầy Tường truyền cảm hứng nghiên cứu lịch sử, nhớ lại: “Chúng em học trường làng, học trong sách thấy loài người trải qua những thời đại đồ đá cũ, đồ đá mới, nhưng không tưởng tượng ra được như thế nào. Nhờ học thầy Tường, các thế hệ học trò ở đây đã được quan sát những hiện vật sinh động. Những mảnh tước, mảnh rìu bằng đá im lìm hàng ngàn năm trên mảnh đất quê hương được thầy đưa vào tiết học. Nhờ đó, chúng em biết về hàng ngàn năm trước người Việt cổ sinh hoạt như thế nào để sinh tồn, duy trì cuộc sống trước tự nhiên, trước dã thú. Thầy vẫn thường khuyên chúng em, tổ tiên loài người từ thời kỳ đồ đá cũ đến thời kỳ đồ đá mới khổ trăm bề, nhưng đã tiến hóa để bước vào thời kỳ kim khí. Vì thế, trong cuộc sống, các em phải vượt khó học tập, tiếp cận khoa học công nghệ để góp phần phát triển đất nước”.

Muốn giải mã vùng đất cổ

Từ năm 1993, thầy Tường lập một danh sách hơn 100 học sinh có những cống hiến cho phong trào Chúng em làm khảo cổ, để ghi nhận sự tích cực của các em khi làm công tác sưu tầm những hiện vật lịch sử bằng đá… Thậm chí, thầy còn trích lương để thưởng các em mua tập vở, sách nhằm khích lệ tinh thần nghiên cứu, học tập của các em. Đến nay, thầy Tường đã sưu tầm được hơn 100 hiện vật trên mảnh đất Phú Định. Trong số hơn 100 mẫu sưu tầm được, thầy giáo làng đã tạo ra một bộ sưu tập với 28 hiện vật đầy đủ lớp lang, thứ tự có giá trị về lịch sử, khoa học từ phổ biến đến quý hiếm để tặng bảo tàng Quảng Bình; 4 mẫu khác tặng cho ngành văn hóa huyện Bố Trạch.

Theo bà Trần Thị Diệu Hồng, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ Bảo tàng tổng hợp Quảng Bình, toàn bộ 28 hiện vật đều thuộc giai đoạn đầu của nền văn hóa Hòa Bình kéo dài đến hậu kỳ đồ đá mới, văn hóa Bàu Tró có niên đại khoảng 12.000 năm đến 3.500 năm trước Công nguyên. Bộ sưu tập góp mặt đầy đủ các mẫu vật như: mảnh tước, bôn đá, lưỡi cuốc, lưỡi rìu, phác vật rìu đá - những công cụ mà người nguyên thủy chế tạo sử dụng trong lao động, sản xuất. Chất liệu các công cụ khá phong phú, từ những lưỡi rìu bằng đá cuội ghè đẽo một mặt đến các mẫu rìu vai xuôi, vai vuông được mài toàn thân.

Bà Diệu Hồng đặc biệt nhấn mạnh, ngoài mẫu vật rìu Hòa Bình, Hoa Lộc, Quỳnh Văn, Hạ Long, Phùng Nguyên, Bàu Tró, bộ sưu tập còn có một mẫu vật rìu đá Bắc Sơn. Đây là những hiện vật mà các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước chưa phát hiện được trong những lần khai quật trước đó vào năm 1923 và 1980 ở Quảng Bình. Phát hiện hết sức độc đáo và có giá trị khoa học vô cùng to lớn này đã đánh dấu địa danh Phú Định trở thành một địa chỉ mới trên bản đồ khảo cổ học của cả nước.

Thầy giáo Lê Quốc Tường trăn trở: “Di chỉ Bàu Tró tìm được 77 hiện vật, Phú Định phát tích hơn 100 hiện vật. Nếu có một cuộc khảo cổ nghiêm túc cấp tỉnh hoặc cấp nhà nước, tôi tin đây sẽ là một di chỉ khảo cổ quan trọng. Có thể người ta cho tôi chỉ là một giáo viên làng không biết sâu chuyên môn khảo cổ, nhưng tôi tin chắc, nơi đây còn phát lộ nhiều bất ngờ nếu các nhà khoa học chú tâm tìm kiếm. Mảnh rìu đá Bắc Sơn là một mảnh rìu quan trọng, đấy là mảnh rìu của một nền văn hóa còn sớm hơn cả những hiện vật tìm ra ở Bàu Tró. 35 năm qua, tôi mong có một cuộc thám sát chuyên nghiệp, nay về hưu đã 3 năm, tuổi già sức yếu, số hiện vật còn lại tôi đã tặng cho các giáo viên dạy lịch sử, truyền lại một phần cho con tôi. Tôi vẫn mong có một cuộc khảo cổ ở Phú Định để giải mã những gì tôi tìm tòi 35 năm qua ở mảnh đất cổ này”.

Ông Mai Thế Trung, Phó Giám đốc Bảo tàng tổng hợp Quảng Bình, cho biết: “Bảo tàng tỉnh đang có các kế hoạch lập những điểm khảo cổ trên địa bàn. Phú Định là một địa danh trong kế hoạch này. Việc khảo cổ sẽ lập các hố thám sát để xác định lịch sử vùng đất. Nó sẽ được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành rất nghiêm túc”.

Theo MINH PHONG (SGGPO)

Có thể bạn quan tâm

Bữa cơm cộng cảm

Bữa cơm cộng cảm

(GLO)- Bữa cơm cộng cảm thể hiện sự cảm thông của người Jrai trước biến cố xảy ra trong một gia đình nào đó. Điều đó xác nhận mối liên hệ giữa các thành viên cùng với sự thống nhất ý chí của cộng đồng.
Cấp phép khai quật khảo cổ tại di tích An Phú

Cấp phép khai quật khảo cổ tại di tích An Phú

(GLO)- Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 580/QĐ-BVHTTDL cho phép Bảo tàng tỉnh Gia Lai phối hợp với Trung tâm Khảo cổ học (Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ) thăm dò, khai quật khảo cổ tại di tích An Phú (thôn 4, xã An Phú, TP. Pleiku).

Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

(GLO)- Từ trước đến nay, địa danh Pleiku được cho là xuất phát từ Plơi Aku trong tiếng Jrai. Plơi (Plei) là làng, Aku (Ku) là cái đuôi. Plơi Aku là làng đuôi, sau đó biến đổi thành Pleiku. Dân gian có 2 truyền thuyết về địa danh Pleiku.
Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Để hiểu rõ hơn về loại trang phục độc đáo này, chúng tôi tìm đến nhà nghệ nhân ưu tú Y Der (61 tuổi, ở thôn Kon Sơ Tiu, xã Ngọk Réo, huyện Đăk Hà, Kon Tum)-một trong số ít những người ở xã Ngọk Réo còn biết làm trang phục từ vỏ cây.
Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

(GLO)- Tối 7-3, UBND xã Chư Á (TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ xã, Đoàn thanh niên xã tổ chức đêm hội cồng chiêng, ra mắt câu lạc bộ “Cồng chiêng, nhạc cụ truyền thống dân tộc nữ làng Chuêt Ngol”.