Nha chương - Báu vật văn hóa thời đại Hùng Vương

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Nhắc đến hiện vật thời đại Hùng Vương và giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên ở Phú Thọ không thể không nhắc đến một loại báu vật, đó là những chiếc nha chương-minh chứng quan trọng trong việc nghiên cứu sự ra đời và phát triển của thời đại Hùng Vương.

Trên miền đất Phú Thọ, những mắt xích văn hóa cứ nối tiếp nhau từ Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn-nền tảng của quốc gia Văn Lang thời đại các vua Hùng. Văn hóa Phùng Nguyên là nền văn hóa mở đầu thời đại kim khí ở vùng miền núi và đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Trong số những hiện vật được tìm thấy tại các di tích văn hóa Phùng Nguyên, đồ đá đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật chế tác. Nhắc đến một nền văn hóa khảo cổ hàm chứa nhiều tinh hoa hơn cả về kỹ thuật chế tác và sản phẩm đồ đá thì phải nghĩ ngay đến văn hóa Phùng Nguyên. Dùng nhiều loại đá khác nhau để chế tạo công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức, cư dân Phùng Nguyên đã sử dụng thành thạo các kỹ thuật ghè đẽo, tu chỉnh, mài, cưa, khoan, tiện, đánh bóng. Độc đáo nhất trong các loại hình đồ đá phát hiện được trong văn hóa Phùng Nguyên chính là những chiếc nha chương.

Nói về nha chương, có nhiều ý kiến khác nhau về tên gọi, công dụng cũng như nguồn gốc của nó. Từ lâu, người ta đã biết đến các hiện vật làm bằng đá ngọc với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo, có hình dạng khá đặc biệt không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà còn hiện diện rất nhiều trong các bộ sưu tập đồ ngọc ở Trung Quốc, Mỹ, Pháp. Dù vậy, tên gọi của chúng vẫn chưa thống nhất vì xung quanh việc xác định chức năng vẫn còn nhiều điểm mơ hồ, đang được thảo luận. Ở Việt Nam, GS. Hà Văn Tấn và các nhà nghiên cứu đa số cũng đồng nhất với quan điểm gọi tên hiện vật này là nha chương.

 Bộ sưu tập nha chương hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ.) Ảnh: Đ.M.T
Bộ sưu tập nha chương hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hùng Vương (tỉnh Phú Thọ). Ảnh: Đ.M.T



Về niên đại của nha chương, theo các nhà nghiên cứu, đây là vật dùng trong nghi lễ ở Trung Quốc thuộc văn hóa Thương, cách ngày nay khoảng 3.700 đến 3.400 năm, trong khi đó niên đại tuyệt đối của văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay, tức là ngang với thời Thương ở Trung Quốc. Điều này giúp ta xác định nha chương có niên đại tương đối vào khoảng 3.700-3.400 năm cách ngày nay.

Về nguồn gốc, vì nha chương xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với số lượng lớn, nhiều kiểu loại bằng đá ngọc tốt, kỹ thuật cực kỳ tinh xảo, đặc biệt ở Trung Quốc còn có cả những công xưởng chế tạo nha chương nên có nhà nghiên cứu cho rằng quê hương của nha chương là ở Trung Quốc. Sự giống nhau đến từng chi tiết giữa nha chương Việt Nam và nha chương Trung Quốc đã khiến nhiều nhà nghiên cứu cho rằng 8 chiếc nha chương tìm thấy ở Việt Nam cũng có xuất xứ từ Trung Quốc. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ ở nước ta đã phát hiện dấu tích các công xưởng chế tác đá ở Gò Chè, Hồng Đà cùng rất nhiều hiện vật như hạt chuỗi, hoằng, vòng đá, khuyên tai, công cụ sản xuất… thuộc nền văn hóa Phùng Nguyên có cùng chất liệu đá ngọc, kỹ thuật chế tác với nha chương. Điều này cho ta thấy cư dân Phùng Nguyên là những người thợ thủ công rất tài, rất khéo léo trong việc tạo dáng công cụ và sử dụng các kỹ thuật chế tác đá. Qua các cứ liệu trên có thể khẳng định rằng nha chương Việt Nam có nguồn gốc bản địa và được sản xuất chủ yếu ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Sự giống nhau về loại hình, hình dáng của những chiếc nha chương ở Trung Quốc và ở Việt Nam là do sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa chứ không phải là sự đồng quy văn hóa.

Về công dụng của nha chương cũng có nhiều ý kiến tranh cãi. Có nhà nghiên cứu cho rằng với hình dáng mỏng dẹt (chỉ khoảng 0,5 cm đến 0,8 cm), chỉ đánh rơi cũng vỡ thì không thể dùng làm vũ khí được mà chỉ có thể là vật sử dụng trong nghi lễ, lễ khí. Theo sách Chu Lễ của Trung Quốc: “Nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn trú”, nó giống như một thứ “thượng phương bảo kiếm” đầy uy lực trong quân đội. Và đa số các nhà nghiên cứu cũng nghiêng về ý kiến cho rằng nha chương có công dụng như chiếc quyền trượng hay lệnh bài biểu trưng cho quyền lực của vị thủ lĩnh dùng để điều binh khiển tướng. Ở Việt Nam, nha chương ngoài ý nghĩa là biểu trưng cho quyền lực của vị thủ lĩnh còn là báu vật của một bộ lạc tồn tại ở giai đoạn đầu của nền văn hóa Phùng Nguyên.

 


Nha chương là một loại hình hiện vật rất độc đáo được cư dân Phùng Nguyên chế tác bằng kỹ thuật ghè, đẽo, khoan, cưa tạo các rãnh nhỏ đối xứng nhau, tạo các lỗ thủng xuyên tâm rất tinh xảo; bên cạnh đó là kỹ thuật mài nhẵn, bóng, mài vát hình chữ V, hình đuôi cá đạt trình độ thẩm mỹ cao. Việc chọn chất liệu đá ngọc và sử dụng kỹ thuật chế tác đá tương thích để làm nên nét độc đáo của chiếc nha chương càng chứng tỏ sự phát triển đỉnh cao của cư dân Phùng Nguyên trong chế tác đá. Việc nghiên cứu, tìm hiểu về những chiếc nha chương cho thấy vùng đất Tổ Phú Thọ chính là nơi tập trung nhiều những hiện vật điển hình, đặc sắc của nền văn hóa Phùng Nguyên, góp phần hình thành nên nhà nước Văn Lang thời đại các Vua Hùng.

Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ phát hiện được 8 chiếc nha chương tại 2 di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên và Xóm Rền (tỉnh Phú Thọ), trong đó tại Bảo tàng Hùng Vương đang lưu giữ 4 chiếc. Chiếc nha chương thứ nhất được người dân phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đất làm gạch năm 1993, nhưng đến năm 1998 nó mới được công bố chính thức. Nha chương còn nguyên vẹn, được làm từ loại đá ngọc nephrite, vân màu vàng ngà, được mài nhẵn bóng, thân dài 35 cm, lưỡi rộng 12 cm, đốc rộng 8,9 cm, mấu dài 0,7 cm, dày 0,4 cm; ở phần đốc có khoan 2 lỗ tròn xuyên tâm cách nhau 3,3 cm, đường kính 0,8 cm, thân có mấu lõm hình chữ V, lưỡi được mài vát một mặt; đốc có một dấu cưa.

Chiếc thứ 2 được khai quật ở di chỉ Xóm Rền vào tháng 12-2004. Nha chương này được làm bằng đá ngọc màu xám xanh, mài nhẵn bóng, đốc hình chữ nhật hẹp hơn thân và lưỡi, lưỡi hình chữ V lệch xòe rộng; giữa thân và đốc có 2 cặp mấu ở 2 bên; phần ngoài của mấu được xẻ rãnh, ở giữa mấu có 1 lỗ tròn. Nha chương dài 20 cm, rộng 6,6 cm, dày 0,4 cm, nặng 190 g, đường kính lỗ khoan là 0,4 cm, độ sâu của rãnh mấu là 0,5 cm. Chiếc nha chương thứ 3 được người dân phát hiện tháng 12-2006 trong khi hạ nền vườn, có dạng hình chữ nhật, thân thẳng, rìa lưỡi cong tròn, cát một mặt, hơi lõm giữa; làm bằng đá nephrite màu trắng, vân màu hồng; nặng 280 g, dài 32,1 cm, dày 0,7 cm, rộng lưỡi 5,9 cm, rộng thân 5,1 cm, rộng cán 4,2 cm, được mài nhẵn bóng toàn thân; các mấu lớn nhỏ được xẻ hình chữ V; gần sát phần đốc có một mấu lớn, trên mấu lớn có xẻ 6 mấu nhỏ, trên mặt của phần mấu người xưa đã dùng kỹ thuật cưa tạo các rãnh nhỏ, nông, chạy song song, đối xứng với nhau; giữa phần mấu lớn về phía đốc khoan một lỗ xuyên tâm có đường kính 0,5 cm.

Chiếc thứ 4 được phát hiện cùng với chiếc thứ 3. Đây là chiếc nha chương dài nhất trong 8 chiếc nha chương được tìm thấy với chiều dài thân là 64,2 cm, rộng 10,5 cm, dày 0,6 cm, rộng lưỡi 7,7 cm, rộng mấu 10,7 cm, nặng 580 g; ở đốc gần sát phần mấu có 1 lỗ khoan xuyên tâm đường kính 0,5 cm; lưỡi có hình đuôi cá, được mài ở 1 mặt, mặt cắt hình chữ V lệch; phần mấu được chế tác rất cầu kỳ với nhiều mấu to, nhỏ khác nhau và được xẻ rãnh song song rất đẹp. Chiếc nha chương còn khá nguyên vẹn này được làm từ chất liệu đá ngọc màu trắng vân xám, toàn thân được mài nhẵn trừ phần đầu đốc vẫn còn dấu cưa và vết bẻ gẫy; đốc được cưa cắt từ 2 phía rồi bẻ ngang.

Bộ sưu tập nha chương hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương trong không gian trưng bày văn hóa Phùng Nguyên nhằm giới thiệu đến khách tham quan những giá trị riêng có và độc đáo và về nghệ thuật chế tác đá đỉnh cao của cư dân Phùng Nguyên.

 ĐẶNG MỸ TRANG
 

Có thể bạn quan tâm

Bữa cơm cộng cảm

Bữa cơm cộng cảm

(GLO)- Bữa cơm cộng cảm thể hiện sự cảm thông của người Jrai trước biến cố xảy ra trong một gia đình nào đó. Điều đó xác nhận mối liên hệ giữa các thành viên cùng với sự thống nhất ý chí của cộng đồng.
Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

Địa danh Pleiku nhìn từ bia ký Chăm

(GLO)- Từ trước đến nay, địa danh Pleiku được cho là xuất phát từ Plơi Aku trong tiếng Jrai. Plơi (Plei) là làng, Aku (Ku) là cái đuôi. Plơi Aku là làng đuôi, sau đó biến đổi thành Pleiku. Dân gian có 2 truyền thuyết về địa danh Pleiku.
Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Ðộc đáo trang phục bằng vỏ cây

Để hiểu rõ hơn về loại trang phục độc đáo này, chúng tôi tìm đến nhà nghệ nhân ưu tú Y Der (61 tuổi, ở thôn Kon Sơ Tiu, xã Ngọk Réo, huyện Đăk Hà, Kon Tum)-một trong số ít những người ở xã Ngọk Réo còn biết làm trang phục từ vỏ cây.
Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

Pleiku: Ra mắt đội cồng chiêng nữ làng Chuêt Ngol

(GLO)- Tối 7-3, UBND xã Chư Á (TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ xã, Đoàn thanh niên xã tổ chức đêm hội cồng chiêng, ra mắt câu lạc bộ “Cồng chiêng, nhạc cụ truyền thống dân tộc nữ làng Chuêt Ngol”.