Chiến khu K10 và 2 người con đặc biệt của Gia Lai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Bây giờ đã đến cái ngưỡng 70 tuổi, nhiều lúc tôi cứ chợt buồn chợt vui chợt ngẩn ngơ. Rốt cục lại tôi thấy cuộc đời đúng là trong rủi có may, trong may có rủi. Nhưng phải chốt lại ở cái câu là, còn sống được đến giờ là may lắm rồi.

Cái khúc đoạn tôi là lính thu dung do bị sốt rét nặng khi đơn vị chúng tôi đang hành quân qua đất bạn Lào lúc mới 19, 20 tuổi thì miễn bàn, vì khi ấy lứa chúng tôi chỉ có mỗi ý chí ra đi, vào chiến trường đánh Mỹ, giải phóng miền Nam. Trong đầu rất ít so đo tính toán. Những ý nghĩ phức tạp dần, nó chỉ đến sau khi tôi bị sốt rét nặng, đơn vị cho các bạn đồng ngũ khiêng tôi, “lẳng” lại Bệnh viện 559, còn cả đơn vị vẫn tiếp tục hành quân vào Nam. Tôi và 20 anh em lính của nhiều đơn vị cùng hoàn cảnh tụt lại phía sau, sau khi được điều trị gần khỏi sốt rét thì bệnh viện lại bị “hưởng” trọn một cuộc oanh kích khủng khiếp của bọn B52 rải thảm.

 

Anh hùng Núp.     Ảnh: Tư Liệu
Anh hùng Núp. Ảnh: Tư Liệu

Tôi nằm trong số người may mắn sống sót của cuộc oanh kích tàn khốc ấy, và được Bệnh viện 559 “nhồi” lên xe tải chạy ngược lại phía rừng Quảng Nam, rồi lại tạt sang trú trong một cái trạm được gọi là “Trạm 9 Cô” ở chung với bà con Lào Lum hay Lào Thưng gì đó. Ngay sau khi tạm ổn, nhóm lính thu dung chúng tôi được một cán bộ trẻ của Tỉnh đội Gia Lai đi họp Quân khu về đến “đón” (sau này tôi mới biết người đó là ông Điểm-Tham mưu trưởng Tỉnh đội Gia Lai, một người chú, người anh, người cán bộ quân sự đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với cánh anh chị em cựu lính Tỉnh đội chúng tôi trong thời cao điểm của cuộc chiến tranh chống Mỹ ác liệt). Ông ta đúng là tướng tá oai phong, đeo súng K59 (chứng tỏ “cốp to”), tay cầm chiếc gậy, lưng đeo chiếc ba lô dù Mỹ, đứng trên một ụ mối, huơ huơ mấy vòng gậy rồi nói to: “Tất cả anh em chú ý! Chúng ta sẽ hành quân tiếp vô Gia Lai gạo trắng nước trong, ai ưng thì theo tui, ai không ưng thì tụt tạt lại, không sao!”.

Nói rồi ông ta đứng nghiêm. Một người trẻ tuổi khá to cao cắp AK báng gấp đứng sau với một cái ba lô to kềnh càng (chúng tôi thầm đoán đây là anh công vụ). Bọn chúng tôi nhìn nhau một lúc rồi không ai bảo ai, răm rắp khoác ba lô đứng xếp hàng theo anh ta. Cuộc hành quân gian nan chừng 20, 30 ngày đói khát trèo đèo lội suối, tránh địch..., rồi cũng đến được trạm giao liên cuối cùng của trạm “Đường dây xã hội chủ nghĩa” và nhập vào “Đường dây giải phóng” thuộc đất K10 (căn cứ cách mạng Khu 10, xã Krong, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai).

Hồi ấy rừng già, tất nhiên. Thưa các bạn, rừng và rừng già, rừng sâu trùm kín chiến khu. Rừng trải dài dọc theo 2 phía Đông và Tây Trường Sơn. Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù. Cuộc kháng chiến chống Pháp và nhất là chống Mỹ một phần làm nên chiến thắng là nhờ quân ta đã tận dụng tối đa lợi thế ở trong rừng. Tỉnh Gia Lai chúng ta có nhiều vùng chiến khu, nhưng chiến khu Khu 10 là trung tâm, là điểm tựa, là “thủ đô” của kháng chiến.

Sau cuộc hành quân theo Thủ trưởng Điểm ấy, tôi được phân về Huyện đội Khu 8 (An Túc, sau này gọi là An  Khê). Tôi sẽ kể lại khúc đoạn tôi được về sống chiến đấu ở Khu 8 với bà con Bahnar làng Đê Chơ Gang sau. Trong phạm vi bài viết về Khu 10 này, tôi chỉ xin mạn phép kể những kỷ niệm sau khi tôi bị thương và được chuyển công tác từ Huyện đội Khu 8 về ở Huyện đội Khu 10.

Cái thời mà những người anh hùng, chiến sĩ thi đua là thần tượng, là lý tưởng, là niềm khát khao phấn đấu của tuổi trẻ. Mỗi lần có ai đó nhắc tới Anh hùng Núp thì bà con Bahnar thường gọi ông một cách thân thiện là đe nhâng Núp. Đe nhâng có nghĩa là “ông anh”, cũng có thể dịch là “người anh”.

 

Đồng chí Trần Văn Bình phát biểu chỉ đạo công tác tuyên truyền về Hiệp định Paris năm 1973. Ảnh: Tư Liệu
Đồng chí Trần Văn Bình phát biểu chỉ đạo công tác tuyên truyền về Hiệp định Paris năm 1973. Ảnh: Tư Liệu

Cả 2 cách dịch đều chỉ biểu thị được một phần tình cảm của người gọi đối với người được gọi. Nó gần như không đủ sức bao trùm, hàm chứa tình yêu thương, tôn kính và ngưỡng mộ, thành thử hễ cứ mỗi lần có ai đó nhắc: “Đe nhâng Núp bò ma” nghĩa là anh Núp nói, tức thì ai nấy cũng đều nhận ngay ra rằng, cái điều ấy chính là nguyện vọng, là tình cảm chung của bà con dân làng. Cánh lính huyện đội người miền Bắc như tôi thời đó hiếm lắm, đa phần là những anh “có được học văn hóa nhiều nhiều”, nên đe nhâng Núp thường tổ chức gặp gỡ anh em, vừa động viên vừa để nhắc nhở chúng tôi quan tâm đến vấn đề phong tục tập quán, ngăn ngừa những hiểu lầm đáng tiếc. Về phía chúng tôi thì mỗi anh đều đã có sẵn trong lòng mình một Anh hùng Núp huyền thoại thời anh cùng bà con làng Kông Hoa tổ chức đánh cho thằng Pháp chảy máu. Một anh Núp hồn nhiên, trong sáng nhưng quyết liệt. Hình tượng Anh hùng Núp mà chúng tôi yêu mến và hâm mộ từ trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc giờ đây càng trở nên sống động, nhất là khi tiếp xúc với ông, một đe nhâng Núp bằng xương, bằng thịt, không hề có vẻ gì của một người anh hùng. Ông có dáng đi hơi chúi về phía trước nhưng không phải là dáng đi của người vội vã, bận rộn. Hình như mọi việc đối với ông đều quá bình thường.

Tôi chuẩn bị cho mình cuộc tiếp xúc đầu tiên với một tâm trạng thiêng liêng và hồi hộp. Tôi đợi chờ sẽ được lĩnh hội những điều mới mẻ. Điều ấy đang đến cùng với tôi đây. Đe nhâng Núp đang ngồi nướng những củ mì chờ tôi.  Và khi tôi tới, ông đứng dậy bắt tay với một câu chào mời rất Bahnar: “E xa bum bé” (Mày ăn củ mì đi). Rồi ông “chồ” lên một tiếng sau đó nói tiếng Kinh: “Tôi cũng ớn ăn củ mì quá, nhưng huyện huy động hết lúa gạo ưu tiên cho phía trước rồi”. Tôi hiểu ông muốn thanh minh cho việc đón tiếp một thành viên mới mà lẽ ra không phải chỉ đơn giản thế này. Tôi vui vẻ ngồi xuống bên ông, vui vẻ ăn củ mì vàng khươm do chính ông nướng. Tôi say sưa ngắm tẩu thuốc luôn luôn bập những cú bập chắc nịch rồi những làn khói phà ra thơm thơm, khen khét. Ngay bên cạnh chỗ ông ngồi là con dao quắm để vừa tầm tay và một cái gùi trong đó hình như chứa toàn bộ đồ đoàn của ông. Tôi cứ ngơ ngẩn nghĩ, chỉ cách đây vài tuần, vài tháng thôi, việc được gặp Anh hùng Núp thì ngay cả trong mơ tôi cũng không dám mơ tưởng tới.

Ấy vậy mà bây giờ đây, tôi đang ngồi bên ông, đang hút điếu thuốc lá do chính ông hướng dẫn cách quấn sao cho vừa chặt lại vừa săn, nhưng không được quá tay để khi hút kéo được hơi vào nhiều, làm cho thuốc cháy hết, cháy đều, khói ra được đậm và thơm như thuốc lá xì gà của Phi-đen (lãnh tụ Cuba Fidel Castro). Tôi vốn là tay hâm mộ Phi-đen nên khi ông vừa nhắc tới, tôi đã vội hỏi ngay: “Thế Phi-đen dạo này có khỏe không chú?”. “Khỏe”, ông vui vẻ nói. “Không khỏe làm sao lãnh đạo cách mạng Cuba thành công  được”, ông cười hồn hậu và sau đó bỗng nhìn tôi với cái vẻ tò mò, hóm hỉnh, ông hỏi bằng tiếng Bahnar: “Mình nghe anh em báo cáo, đồng chí nói được tiếng Bahnar, sao không nói chuyện với mình bằng tiếng Bahnar cho vui?”. Tôi lúng túng, tuy nhiên được lời như cởi tấm lòng, cũng giống như nhiều anh em người Kinh khác đang mê mải học tiếng địa phương, chỉ cần gợi ý thế là tôi đâu có ngán. Tôi bắt đầu “mở băng”. Tôi kể chuyện hồi mới học tiếng đồng bào, lũ du kích làng Đê Chơ Gang chuyên trị bày cho tôi những câu bậy bạ để nghe tôi nói làm trò cho họ cười. Ông chợt đẩy cái mẹt có củ mì nướng tôi đang ăn dở sát vào người tôi, với vẻ mặt nghiêm trang, nói: “Xa! Xa bé!”, bằng phản ứng tự nhiên, tôi ngồi xích ra và ông níu vai tôi cười, nói: “Đó, người ta mời mình ăn đi thì lại sợ, lại ngồi tít xa ra thế, không cười sao được?”. Tôi biết mình bị hố, bị ông “gài bẫy”. Tôi phải xin lỗi bạn đọc mở ngoặc đơn chỗ này là vì, tiếng Bahnar từ “xa” có nghĩa là “ăn”. Bằng thái độ đẩy cái mẹt của ông khiến tôi không kịp phản ứng, không kịp nhận ra trò “gài bẫy” vui vẻ của ông. Đó, Anh hùng Núp là thế đó. Từ lúc được tiếp xúc với ông tới giờ, tôi đã nhanh chóng quên mất rằng tôi đang làm việc, theo như cách nói trang trọng là, làm việc với cấp trên. Hơn thế, tôi đã quên cả những câu định hỏi, những ý định nói mà trước khi đi tôi đã chuẩn bị. Tôi cũng không nhớ rằng, tôi đang được nói chuyện với thần tượng của mình nữa...

Sau này, nhờ Anh hùng Núp giới thiệu, tôi và anh Tăng được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Bình (bok Đẳng) đón tiếp rất giản dị, chu đáo. Được ông mời ăn bắp rang trộn mật ong, uống  nước chè giây, đặc sản của Khu 10 và ông hỏi đủ thứ. Ông kể chuyện ông mới đi thăm làng Đe Tăng vừa bị núi lở sụt mất cả làng trong trận mưa bão! Chuyện này chấn động cả tỉnh. Ông nói tiếng Bahnar và tiếng Jrai rất giỏi cùng với bok Núp. May mà hồi đó tôi cũng đã kha khá nên được ông khen. Tôi quá bất ngờ khi thấy ông nói khá lâu về văn hóa văn nghệ địa phương, về đội ngũ anh chị em sáng tác thơ văn nhạc họa. Hồi đó có rất nhiều người giỏi như anh Nguyên Ngọc, sau này có anh Ngọc Anh, anh Thu Bồn… Rồi ông hỏi tôi và anh Tăng: “Mấy anh em có biết nhà thơ Nguyễn Khắc Phục không?”. Tôi bảo có biết chuyện anh Phục, anh Hoàng Hởi (người Tày Cao Bằng) và một bác họa sĩ già cũng mới vô Gia Lai và sáng tác về Gia Lai rất nhiều. Ông khen anh Phục là một người thông minh và có tài năng văn học đặc biệt. Ông kể, mới rồi nhà  thơ Nguyễn Khắc Phục và nhà thơ Hoàng Hởi cùng bác họa sĩ già đến Khu 10 cũng là một vinh dự cho Khu 10 và cho tỉnh nhà. Họ đã được ông và bok Núp tiếp đón, tạo điều kiện đi thực tế ở các buôn làng đến cả tháng trời…

Ngày bok Đẳng mất (18-4-1974), tôi còn ở Khu 10. Tôi nhớ, không chỉ có rừng chiến khu của Gia Lai trong Khu 10 chịu một cái tang lớn mà cán bộ, chiến sĩ khắp các cơ quan, ban ngành của tỉnh đâu đâu cũng ngỡ ngàng chua xót chia sẻ với nhau về sự mất mát lớn của tỉnh nhà. Hồi ấy tôi làm công tác cơ sở nên hay đi xuống các làng, thấy tất cả bà con từ Bahnar đến Jrai, bà con người Kinh từ An Khê đến Cheo Reo đâu đâu cũng khóc, cũng bày tỏ tình thương yêu như ruột thịt của mình.

Anh hùng Núp cũng đã đi xa gần 20 năm. Vẫn biết chuyện “sinh lão bệnh tử” là không thể nào tránh khỏi, nhưng tôi vẫn ngậm ngùi. Dù vậy, tôi vẫn phải cảm ơn số phận đã cho tôi được thân quen với 2 người con khá điển hình của Gia Lai một thời. Một người là “kon Kinh” (người Kinh) và một người là “kon Kông” (người dân tộc thiểu số), đó là bok Núp và bok Đẳng.

Đã hơn 40 năm sau ngày quê hương mình hết giặc giã, giờ đây nhắc đến 2 con người đặc biệt của cách mạng tỉnh nhà, của chiến khu Khu 10 năm xưa, chúng ta hãy cùng nhau nghiêng mình kính cẩn tưởng nhớ các vị và hứa cùng nhau đánh tan bọn giặc “nội xâm” tham nhũng hoang tàn mà Đảng ta đang gầy lửa đốt lò thiêu chúng.

Tôi có cái may mắn là sớm được gặp Anh hùng Núp, vì khi ấy bok Núp đã làm Bí thư Huyện ủy Khu 10 kiêm Chính trị viên Huyện đội. Hơn thế, tôi lại còn được ở chung sống chung, công tác chung với ông mấy năm giữa thời trai trẻ ấy. Sau này thân quen, ông dẫn tôi và anh Nguyễn Mạnh Tăng (Trợ lý chính trị của ông, tức là của Huyện đội Khu 10) đến gặp bok Đẳng (đồng chí Trần Văn Bình)-Bí thư Tỉnh ủy. Đây là cuộc gặp mặt thật hy hữu và đặc biệt trong cuộc đời lính tráng của tôi. Ông Đẳng khi ấy là một người gần gũi và thương dân “như bok Hồ của Gia Lai”-bok Núp  nói với chúng tôi trước khi đến gặp.

Trung Trung Đỉnh

Có thể bạn quan tâm