Shiva nằm ngủ ở thượng nguồn Da Dơng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Tôi hay nghĩ về nó. Vậy thì tôi sẽ viết về nó bằng trạng cảm đối thoại với một thực thể câm, mà chẳng cần người du lịch có để ý hay không. Đơn giản nó là nơi tôi gắn bó suốt một thời trai tận lực vì di sản văn hóa vùng sơn nguyên mà người Chăm xa xưa gọi là Kirata. Nó là Thánh địa cổ bí ẩn Cát Tiên, nằm về cực Nam vùng Kirata mờ ảo lùi sâu vào lục địa (Tây Nguyên), thuộc địa phận hành chánh huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng ngày nay…
 

Cận cảnh kiến trúc trong đường chân đế và một phần tường thành còn lại của một đền tháp.                                                                                     Ảnh: N.H.T
Cận cảnh kiến trúc trong đường chân đế và một phần tường thành còn lại của một đền tháp. Ảnh: N.H.T

Tôi lại thả xe máy về để lang thang và ngủ ở đây, ngay trong lòng thánh địa cổ mục này. Nghĩa là mọi chỗ tôi bước chân lên lẫn khi đi nằm nghỉ, ngủ đều giữa thành quách xưa. Nó vẫn hiện ra thế, chìm sâu và le lói, khơi gợi, thách thức, như mấy chục năm nay, kể từ buổi ra trường không thân thế và nghèo kiệt cũng có mặt ở Cát Tiên. Chân đặt trên mặt đất mà như hoang du trong cổ sử, chạm mặt với người xưa trên những ngọn đồi đầy cây dại và bạt ngàn gạch nâu cổ ngổn ngang. Hôm nay trở lại, nó vẫn hiện ra chào đón với đầy đủ vẻ buồn xa vắng tự nhiên ấy, buồn đến tận xa xưa, buồn như ngàn thu tráng sĩ. Vẫn trong đổ nát. Nó vẫn vùi sâu dưới lòng đất. Tất cả trong hoang tàn. Tất cả giữa hư ảo. Nhưng nó vẫn sừng sững ký ức sáng tạo, văn hóa, lịch sử về một cõi mờ xa đến mất hun hút rồi.

*

Sắc tộc Mạ là cư dân lâu đời sống ở vùng này, họ gọi quê của mình là Bur Go. Nhưng họ không có ký ức gì chứng tỏ là chứng nhân hay hậu duệ của những công trình kiến trình đã vùi dưới lòng đất đó. Họ chỉ nói về những khu rừng vùi lấp những công trình kia là chỗ âm u, ma quái, thiêng, không đặt chân vào đó và cũng không nhắc gì đến những thành quách kiến trúc. Bậc thầy khám phá hầu hết các nền văn hóa, di sản kiến trúc cổ trên lãnh thổ Việt Nam là người Pháp một thời cũng không hề biết đến vùng này. Bản đồ không ảnh thời thuộc địa đã đánh dấu đây là vùng rừng rậm, “không xác định”, “không rõ”. Mãi đến đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, chính quyền mới trên lãnh thổ Việt Nam đưa dân đi kinh tế mới vào vùng này, qua phá rừng phát hoang lấy đất canh tác, sản xuất, dân kinh tế mới đã làm hé lộ tản mát về những vật liệu kiến trúc trong rừng Cát Tiên. Và năm 1985, những thám sát khảo cổ học đầu tiên mới được gõ xuống vùng rừng này. Và một thánh địa cổ xưa đã phát lộ…

Sau 7 lần khai quật từ đó đến nay của các nhà khảo cổ học Việt Nam đã bước đầu nhận định đây là một thánh địa Bà La Môn Giáo (Brahmanism). Không công trình nào còn nguyên hình hài kiến trúc cả. Mọi đền tháp để đặt bộ Linga-Yoni vào đều đã đổ nát. Không ai rõ vì sao nó đổ nát cả. Chỉ thấy cứ sau một lần khai quật, lộ ra thêm một công trình kiến trúc đổ nát. Bóc lớp thực vật đã thành rừng nguyên sinh kia ra, đào sâu xuống, hé ra những thành quách linh thiêng, đầy những kiến trúc đền tháp, kiến trúc đài thờ, kiến trúc nhà dài, kiến trúc khu hành lễ, kiến trúc mộ tháp, kiến trúc đường nước tâm linh… Gạch đá ngổn ngang, đổ sập như những lò gạch hoang lụi. Chỉ một vài chỗ còn thấy chân đế của thành. Đế tường có độ dày từ 1,4 mét đến 1,6 mét, có chỗ đến 2 mét. Nó cao bao nhiêu mét, hình thái kiến trúc ra sao, điêu khắc thế nào trên đó,… đều là thông điệp của hoang vu. Một thứ gạch cổ xưa hiện ra, từng viên hình chữ nhật to dày hơn gạch ngày nay. Các lớp gạch xếp lên nhau, dính vào nhau mà không hề có cấu trúc vôi vữa. Đến lúc này có 7 đền tháp đã lộ ra, trong dọc suốt chiều dài 15 cây số bên bờ trung nguồn của dòng Da Dơng (nghĩa là nguồn nước lớn, sông lớn-tiếng Mạ và cả K’Ho, M’Nông, S’Tiêng bản địa, sau này tiếng phổ thông người ta gọi là Đồng Nai) này, và còn bao nhiêu đền tháp, thành quách nữa ở dưới đất thì chưa biết. Nó chỉ cho thấy trong tro tàn của nó là mọi cửa đều mở về hướng Đông, lối lên vào tháp lờ mờ và được làm hết sức kiên cố, tỉ mẩn, sử dụng các phiến đá basalt, granite. Nhưng rõ ràng, với những công trình xuất hiện như thế cho thấy nơi đây từng có một cộng đồng đạt đến trình độ cao về văn minh, kiến trúc, có trình độ tổ chức xã hội, điều kiện kinh tế...

Cùng với những diện mạo kiến trúc kia, đến lúc này các nhà khoa học cũng phát hiện đi cùng trong lòng quần thể các phế tích đó, là các hiện vật liên quan đến Bà La Môn Giáo, hoặc ít nhất ảnh hưởng của văn minh cổ đại Ấn Độ. Bộ ngẫu tượng Linga-Yoni điêu khắc đá là biểu tượng hóa thân của thần Shiva lớn nhất Đông Nam Á đang nằm ở đây: cao 2,1 mét, đường kính 0,66 mét, phần yoni có hình vuông với mỗi cạnh dài đến 2,26 mét. Và rất nhiều, rất nhiều những hình tượng điêu khắc riêng rời về thần Brahma, Visnu, Shiva, hay thần Inda, Surya, Uma, cùng các vật cưỡi liên quan như bò thần Nandin, rồi cả phúc thần mình người đầu voi Ganêsa, ngỗng Hamsa, khỉ Maman... Cùng với hoa văn bông sen khắc trên gạch, những mảnh vàng mỏng, hình ảnh bánh xe luân hồi, quả cầu xuất hiện cũng nhiều. Và tín hiệu ít ỏi xuất hiện về văn tự là chữ Sanskrit, Brahmi. Bất ngờ hơn, còn phát hiện những hiện vật mang dấu hiệu văn hóa vùng Ba Tư ở Tây Á-Địa Trung Hải và vùng Kusan (Trung Á) ở đây, mà chiếc hộp bạc khắc hình sư tử, vòng đồng có núm, cốc chân cao… là đại diện của điều đó. Từ đấy nó cho thấy, chủ nhân của thánh địa cổ bí ẩn trên đất nước Việt Nam này ở vào một thời đại bang giao rộng, có quan hệ văn hóa, thương mại với nhiều nơi trên thế giới khi đó.

Giáo sư Trần Quốc Vượng lúc còn sống đoán định rằng quần thể kiến trúc ở thánh địa Cát Tiên là của người Mạ bản địa. Nhưng sở dĩ hậu duệ ngày nay của họ quên vì thời hoàng kim của cộng đồng họ lụi tàn đã quá xa. Nhìn trình độ phát triển của người Mạ ngày nay mấy ai tin họ đủ sức tạo nên những công trình kiến trúc rạng ngời của một thánh địa chứ. Còn Giáo sư Lương Ninh thì cho nó là chính nó, không thuộc ai cả, “đứng riêng một góc trời”. Người bạn thân của tôi, nhà khảo cổ học đặt những cú khai quật đầu tiên xuống vùng Bur Go này và thực hiện nhiều cuộc khai quật về sau, gắn bó nhất với nó, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Bùi Chí Hoàng-Trung tâm Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học Xã hội vùng Nam bộ-lại khẳng định nó là thánh địa của một cộng đồng cũng nằm trong mạng lưới thương mại Đông-Tây vốn phát triển khá mạnh vào thế kỷ III-IV và khung niên đại của nó có thể từ thế kỷ IV-VIII sau Công nguyên và có thể nó có liên kết cộng sinh với cư dân bản địa sinh sống lâu đời ở đây. Nhưng quần thể kiến trúc ở xứ Bur Go này dần đi vào suy thoái khi con đường thương mại Đông-Tây chuyển dịch từ vị trí từ Óc Eo (nơi là thành phố hải cảng của nhà nước Phù Nam cổ đại nằm ở Thoại Sơn, tỉnh An Giang dưới vùng châu thổ Nam bộ ngày nay) tới vùng eo biển Malacca ở phía Nam bán đảo Malay từ cuối thế kỷ thứ V về sau. Càng nhiều giả thuyết, quần thể kiến trúc ở thánh địa cổ này càng huyền bí.

*
Thánh địa cổ ở vùng Bur Go-gần đây được gọi chung là Quần thể di tích Cát Tiên (theo tên huyện mà nó tồn tại)-này quả quá bí ẩn. Mọi thứ vẫn chưa vén lên hết, vì nhiều vết tích văn hóa về nó vẫn còn nằm đâu đó trong lòng đất, rải ra trên những đồi bát úp, trong thung lũng kia. Nó lụi tàn về hình dáng kiến trúc, nhưng sự đồ sộ  của nó đến lúc này đã thấy lớn hơn thánh địa Chăm ở Mỹ Sơn, Quảng Nam (Việt Nam), bí ẩn hơn đền Angkor của Khmer ở bên Campuchia. Tầm vóc nó là tầm của di sản văn hóa thế giới. Nhưng chưa nơi nào đủ tình yêu và tài lực để lập hồ sơ di sản cho nó.

Nó hiện hữu trên trần gian, nhưng trong tư thế của huyền thoại. Tiếng nói hoang tàn cũng có lúc được vang lên, vì nó là một phần thực thể quá khứ của chúng ta. Thì thôi, nó cứ tồn tại trong thinh lặng như thế có khi lại hay, để là chính mình, mà chẳng cần thách thức trí tuệ con người hiện đại về khả năng khám phá tàn tro quá khứ của nó làm gì. Thì thế đi, để lâu lâu hậu thế bé bỏng này lại về ngưỡng vọng khối tro bụi kỳ vĩ thân thương đã hóa rêu thâm tình.

Nguyễn Hàng Tình

Có thể bạn quan tâm