Trên đồng đất đời người

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
* Kỳ 2: Yang Hri xuống đồng và “cuộc cách mạng” bắt bò cày ruộng
(GLO)- Ngỡ không còn trở lực nào ngăn nổi hiện thực một cánh đồng vàng trong tầm tay khi ruộng đồng, mương máng đã được Nhà nước đầu tư bài bản. Bên cạnh đó là sự xúc tác của hàng ngàn hộ dân kinh tế mới đến từ các vùng quê lúa danh tiếng Thái Bình, Hà Nam Ninh. Thế nhưng, giấc mơ đâu có thể đến sau một đêm thức dậy. Một cuộc đấu tranh cam go đã diễn ra đối với những người đi tiên phong trong cuộc vận động đồng bào giã từ nếp cũ. 
Cược tính mạng với cây lúa nước
“Vụ Đông Xuân vừa rồi, nông dân Ia Yeng có người đạt năng suất tới 10 tấn lúa/ha. Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức cân tại ruộng để xác thực…”. Cái tin từ Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Phú Thiện đã khiến tôi tìm về xã Ia Yeng để thăm lại Đinh Nhiêu, người tiên phong làm lúa nước, đưa dân làng “bước qua lời nguyền” để làm nên điều có thể coi là kỳ tích hôm nay.
Con đường bê tông phẳng lì cắt qua cánh đồng thảm một màu vàng ngút mắt. Mới mươi năm mà cảnh vật đã trở nên lạ lẫm khiến tôi phải vừa đi vừa hỏi. Đinh Nhiêu nhận ra tôi ngay với nụ cười vẫn khoáng đạt như ngày nào. Nghỉ hưu đã mấy năm rồi nhưng vị cựu Chủ tịch Hội Nông dân huyện Phú Thiện xem ra vẫn còn năng động. Ông kể tôi nghe chuyện nuôi cá, nuôi lươn thử nghiệm… Nhắc lại chuyện cũ, ông cười xòa: “Lâu lắc rồi mà. Ờ nhưng anh muốn thì kể, xem như cũng là một kỷ niệm vui”.
Đó là năm 1983. Sau hơn 10 năm cầm súng đánh giặc rồi truy quét FULRO, Đinh Nhiêu xin chuyển ngành. Gặp dịp Huyện ủy tăng cường cán bộ cho xã, ông xin về quê vợ vừa công tác vừa tính luôn cái chuyện neo đậu nửa còn lại của cuộc đời.
  Thu hoạch lúa ở Phú Thiện. Ảnh: N.T
Thu hoạch lúa ở Phú Thiện. Ảnh: N.T
Đinh Nhiêu về làng đúng lúc mất mùa. Cả xã Ia Yeng ai cũng vật vờ vì đói. Bao nhiêu chiêng ghè, trâu bò bán hết để mua gạo sống qua ngày. Nhìn ra cánh đồng mịt mùng hoang dã, không một bóng cây nuôi sống được người, Đinh Nhiêu hiểu ngay sự tình. Thật ra thì chẳng riêng năm mất mùa, cứ đến giáp hạt là thế thôi. Bà con cứ đeo đẳng mãi cây lúa rẫy thì cái đói sẽ còn ám mãi. Một kế hoạch đã vạch sẵn trong đầu, ông quyết định xuống Bình Định nhờ anh em đơn vị cũ chỉ cho cách làm lúa nước. Nắm được kỹ thuật rồi, ông trở về lọ mọ đo vẽ, tính toán bình độ để làm mương dẫn nước về. Mọi thứ chuẩn bị đâu vào đó, Đinh Nhiêu mới họp dân vận động. Cứ ngỡ bà con sẽ ôm lấy ông mà hoan hô, ai ngờ tai Đinh Nhiêu như bị vỡ ra vì những tiếng la ó: “Lệ ông bà, Yang Hri (Thần Lúa) chỉ ở trên rẫy. Nay mày bắt xuống nước thì Yang chết đuối. Làng đã đói mày còn muốn cho chết thêm nữa sao?”. Ngẫm tình thế này nếu cứ thuyết suông thì mấy ngày cũng chẳng chuyển mà thời vụ đến nơi rồi, ông đứng phắt lên cầm con dao chém vào cột nhà thề: “Mọi người cứ theo lời Nhiêu đi. Nếu Yang Hri chết đuối làm bà con đói thêm, Nhiêu này sẽ bán hết tài sản đền rồi thắt cổ chết trước mặt dân làng, được chưa?”.
Đinh Nhiêu làm tờ cam đoan rồi mời già làng ký tên làm chứng. Chừng như hả dạ, mọi người hể hả ra về. Tưởng thế đã xong, ai ngờ hôm sau lại phải đi từng nhà chèo kéo. Rát cả họng, cuối cùng người ta mới đồng ý với điều kiện 5 hộ làm 1 sào! Đã thế, làm cho mình nhưng họ cứ như làm thuê cho Đinh Nhiêu. Hễ không thấy ông là người ta lén bỏ đi chơi, thậm chí trốn. Hiểu rằng nếu thất bại thì tờ cam đoan kia không phải chuyện chơi, Đinh Nhiêu không dám về nhà. Có ngày ông phải nướng bắp khô ăn thay cơm để nằm trực tại đồng. Lúa gieo xong hai con mắt ông cũng trũng sâu như ống lồ ô. Vợ ra thăm thấy thế chỉ còn biết bưng mặt khóc...
Cuối vụ năm đó ai ngờ, mỗi sào không chỉ thu được 18 bao như Đinh Nhiêu cam đoan mà những 22 bao! Những người chống đối hăng bây giờ chỉ còn biết ngậm miệng đưa mắt nhìn nhau. Vụ sau thì khỏi vận động, ai cũng đua nhau làm. Cái đói biến mất như có phép lạ… Bây giờ thì khỏi phải nói. Ia Yeng mươi năm trước có nhà mỗi năm thu đến sáu bảy chục bao lúa rồi. Người ta dường như đã quên phắt Yang Hri ở đâu.       
Từ căn nhà của Đinh Nhiêu có thể thu vào tầm mắt một mảng lớn của cánh đồng Ayun Hạ. Dòng kênh cấp I  như  vệt chỉ giăng qua biển lúa chấp chới một màu vàng lụa. Ở buôn Kte, những căn nhà sàn bề thế trắng lóa một màu tôn mới. Tiếng động cơ chạy sình sịch, tiếng xe máy đan nhau nhộn nhịp như một thị tứ nhỏ. Đón cần rượu từ tay Đinh Nhiêu, tôi cảm giác như câu chuyện ông kể là lời vọng từ một cõi rất xa xăm nào…
Bước qua “lời nguyền sét đánh”
Ngày mới lên nhận công tác, tôi nghe một cán bộ nói: “Ở Gia Lai, ai vận động được đồng bào chịu bắt bò cày ruộng thì phong người đó anh hùng”. Ngỡ là ông nói cho vui, giờ gặp 2 “thủ lĩnh” tiên phong bắt bò cày ruộng, nghe các ông kể mới thấy lời của vị cán bộ kia không phải là đùa.
- Lúc đó, tôi là Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách mảng nông nghiệp-ông Rơ Mah Ét-nguyên Phó Chủ tịch UBND thị trấn Phú Thiện-kể. Ông Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp Phú Thiện bấy giờ có cái tên rất ấn tượng: Ngô Quyết Thù. Ông Thù là cán bộ quân đội tăng cường. Lương chủ nhiệm của ông được trả bằng lúa. Thấy đồng bào cuốc ruộng cực nhọc, ông Thù chật vật thuần hóa mấy con bò để dạy bà con học cày. Tuy nhiên, bảo đến ai người ta cũng cứ giãy nảy. Cuối cùng chỉ một mình tôi chịu học. Được ông Thù chỉ bảo tận tình, sau 2 buổi thì tôi cày thạo, lại biết cả cách thuần bò nhà để cày. Có lẽ ông Thù không biết bắt bò cày là đụng đến niềm tin tâm linh của bà con. Với họ, bò là con vật chỉ để cúng Yang. Đày đọa con vật để hiến tế của mình, Yang sẽ nổi giận. Biết vậy nhưng bấy giờ đang tuổi thanh niên hăng hái theo cái mới, tôi cứ phớt lờ…
Năm 1996, nước Ayun Hạ về tới. Dân kinh tế mới Ninh Bình đổ vào và “cuộc cách mạng lúa nước” bắt đầu bùng nổ. Thế nhưng, với bà con dân tộc thiểu số, dù ruộng đã được Nhà nước san ủi, mương máng đưa nước về tận nơi, họp chia ruộng vẫn không ai chịu nhận. Chúng tôi dọa: Nếu bà con không nhận, hợp tác xã sẽ gọi dân Bình Định lên làm. Thế nhưng cuối cùng cũng chỉ có tôi và ông Ksor Ký. Nhận ruộng xong, tôi hăm hở bắt bò ra cày. Vừa mới được mấy đường chợt nghe tiếng la hét dữ dội. Ngẩng lên thì ra là ông cậu ruột. Với vẻ mặt tức giận đến tột độ, ông chỉ tay vào mặt tôi quát: “Đồ lười! Mày sức vóc thế kia sao không cuốc mà bắt bò cày? Con bò từ đời ông bà chỉ cho đi chơi để cúng Yang. Nay mày bắt nó kéo cày cực nhọc, lấm láp, Yang làm sét đánh chết mày, làm dân làng ốm đau thì sao hả?”. Tôi nén nỗi bực, cố cười cười cho ông hết giận: “Cậu coi người Kinh đang cày đầy đồng kia kìa, sao sét không đánh họ đi. Mà tôi cày từ nãy giờ cũng thấy sét nào đâu? Cậu cứ về đi, có gì tôi chịu cho”. Thấy có vẻ không lay chuyển được thằng cháu cứng cổ, ông giậm chân thình thịch đi về. May năm ấy trong làng không xảy ra chuyện gì, lúa của tôi lại thắng lợi. Mỗi sào thu được tới 1,2 tấn, gấp 10 lần làm lúa rẫy. Chuyện rõ quá nên chẳng còn ai chọc phá gì được nữa. Vậy mà phải 2 năm sau bà con mới chịu nhận ruộng làm.
Nếu ở cánh phía Nam, Rơ Mah Ét là người tiên phong bắt bò cày ruộng, đưa dân làng “bước qua lời nguyền” thì cánh phía Đông cũng có một người như thế, đấy là ông Đinh Như-nguyên Chủ tịch UBND xã Pờ Tó (huyện Ia Pa).
- Năm 1987, lúc dân  kinh tế mới đến vùng đất này làm lúa nước, đặc biệt là thấy họ dùng trâu bò kéo cày, kéo xe, bà con dân tộc thiểu số ai cũng kinh sợ-ông Đinh Như kể. Bọn thanh niên chúng tôi lúc đầu cũng tin nhưng rồi chẳng thấy ai bị sét đánh như lời người già cả. Từ sự bất tin, chúng tôi mày mò học làm theo. Cứ nghĩ cùng lắm là bị chửi, nào ngờ mới mắc xe vào cổ bò cả làng đã loạn lên. Vậy là phải vội vàng tháo ra. Rút kinh nghiệm, từ hôm sau, chúng tôi cho xe bò xuất hiện từng ít một. Khi họ nhờn mắt rồi mới đưa bò ra tập cày… Chửi mãi cũng chán mà chẳng thấy ai bị sét đánh, làng cũng chẳng xảy ra ốm đau, dịch bệnh gì, người này lặng lẽ làm theo người kia. Lời nguyền mất thiêng rồi cứ thế trôi về dĩ vãng.
Phải mất 2-3 năm, thậm chí có nơi phải đến 4-5 năm mới phổ cập được cái mới và cắm chắc niềm tin của đồng bào với cây lúa nước.
Ngọc Tấn

Có thể bạn quan tâm

Cánh chim bay ngang trời

Cánh chim bay ngang trời

Say mê tiếng sáo khi còn là cậu bé lên 7, NSND Trịnh Mạnh Hùng ví đời mình như cánh chim bay ngang trời từ miền núi xa xa vút qua đồng bằng trải dài rồi băng qua đại dương rộng lớn đến khắp nơi trên thế giới, chỉ mong để lại cho đời một thanh âm trong trẻo, mang dáng hình quê hương.

Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo

Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo

Mỗi khi cùng NSND Tiến Thọ về quê Bồng Báo, ông lại ngân nga cái câu ấy có trong tích trò khuyết danh Quan Âm Thị Kính. Hình như trong lộ trình thành danh, Lê Tiến Thọ đã sớm làu thuộc câu hát về miền quê mình có vùng đất xưa mang tên cái tên rất cổ.
Loạn phòng khám nam khoa 'chui'

Loạn phòng khám nam khoa 'chui'

Thời gian qua, Báo Thanh Niên nhận được nhiều phản ánh của bạn đọc về các phòng khám, cơ sở "chui" ở TP.HCM quảng cáo lố, không đúng sự thật về việc nâng cấp "cậu nhỏ" bằng phương pháp, công nghệ hiện đại, điều trị được nhiều bệnh sinh lý nam.
“Liệt sĩ” trở về đau đáu với bia mộ mang tên mình

“Liệt sĩ” trở về đau đáu với bia mộ mang tên mình

(GLO)- Giấy báo tử ông Lệ do Chính ủy Trương Lạch ký. Tháng 3-1981, ông Lệ ra quân với tình trạng sức khỏe suy giảm 61%, là thương binh 2/4. Cả gia đình ngỡ ngàng không tin nổi khi thấy ông trở về. Còn ông thì không khỏi lạnh người khi nhìn thấy chân dung mình sau làn khói hương vấn vít...
Chạm đến ước mơ bằng tình thương

Chạm đến ước mơ bằng tình thương

“Tạo hóa không sinh ra ai để sống những tháng ngày vô nghĩa. Dù chào đời không nhìn thấy ánh sáng, nhưng tôi tin rằng, bằng tình yêu thương, niềm tin và hy vọng, một ngày tôi sẽ chạm đến ước mơ của riêng mình”. Đó là chia sẻ của Nghiêm Vũ Thu Loan, Chủ nhiệm Mạng lưới sinh viên khiếm thị Việt Nam.